NEW TOPIC'S DQ
|
25-12-2016, 11:22 PM
Bài viết: #191
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
|
|||
26-12-2016, 07:15 AM
Bài viết: #192
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
|
|||
27-12-2016, 04:02 PM
Bài viết: #193
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
CÁC BÀI KỆ NIỆM PHẬT
DỰA VÀO LỜI TỰA CỦA TÁC GIẢ TỲ KHƯU THÍCH CHÍ GIÁC CHÂU, dq mạnh dạn copy lại ( kg hoàn toàn hết quyển) tập sách mà kg ngại sợ bị phê bình vì sao chép mà chưa xin phép . VẢ LẠI NHỮNG GÌ VỀ ĐẠO MÀ CHẮC CHẮN KG HÍ NGÔN, ĐI XA CHÁNH PHÁP thì dq TỰ NGHỈ NÊN PHỔ BIẾN CHO MỌI NGƯỜI CÙNG TÌM HIỂU & THU THẬP. Vì thế tác giả nếu có vô tình xem qua xin lượng thứ. (Bồ tát Long Thọ) Ít nói một câu chuyện Nhiều niệm một câu Phật Đánh chết được vọng niệm Pháp thân người hiển lộ. Phổ nguyện pháp giới chúng sinh Sớm niệm Di Đà Phật Tối niệm Di Đà Phật Niệm niệm từ tâm khởi Niệm niệm bất ly tâm Hết một báo thân này Đồng sinh cõi Cực Lạc (phẩm Quang Minh Giác trong kinh Hoa Nghiêm) Trong tất cả oai nghi, Thường niệm công đức Phật, Ngày đêm không chịu ngừng nghỉ, Phải nên siêng tu tập ( Phẩm Hiền thủ) Thấy người lâm chung khuyên Niệm Phật. Và lập tượng Phật cho chiêm ngưỡng, Để họ quy y về với Phật, Do đó nay được ánh sáng này. (Phẩm Đâu-suất kệ tán) Lấy Phật làm cảnh giới Chuyên niệm không buông bỏ Người này thấy được Phật Tâm cùng Phật không khác. ( Bồ tát Giác Minh Diệu Hạnh) Pháp yếu của chư Phật, Nhiệm mầu chẳng nghĩ bàn. Bởi pháp chẳng nghĩ bàn, Không thể diễn hết ý. Đức cha lành Mâu Ni, Thương xót các quần sinh. Nói chỗ không thể nói, Dắt kể trước người sau. Lại dùng phương tiện lạ, Chỉ rõ cõi Cực Lạc. Dạy phát nguyện vãng sinh, Vượt ngang ba đường ác. Bởi Phật A Di Đà, Nguyện lớn nhiếp muôn loài. Như nghe danh, thọ trì, Quyết sinh không còn nghi. Nếu người có đại lực, Tâm niệm thường chuyên nhất. Thành tự Tam-muội sâu, Hiện tiền cũng thấy Phật. Nay tà y Thánh giáo, Sắp diễn pháp lợi sinh. Thương các ngươi mê lầm, Chỉ rõ đường tu chánh. Đây chẳng phải duyên nhỏ, Nên sinh niệm khó gặp. Đường Tây Phương như tin, Một niệm vượt mười ức. (Bồ tát Đại Từ) Khuyên được hai người tu, Sánh bằng mình tinh tấn. Khuyên được hơn mười người, Phước hụê mình vô lượng. Bằng khuyên trăm nghìn người, Gọi là chân Bồ tát. Lại khuyên hơn số ấy, Tức Phật A Di Đà. (Thiền sư Duy Tắc) Ngoài song non xanh giăng màn hoa. Triền non thanh tuyền buông cầm ca. Trong song kia ai im như mơ. Ngồi xem Thiên Như câu Di Đà. Người đời đều ưa cơ thiền sâu. Hành nhân ai vào tâm vương mầu. Đèn sương bơ vơ ngoài trời thu. Non Tu vi trần đều gồm thâu. Mà trong A Di hồng danh thâm. Ngàn muôn không tìm ra tri âm! Thiên Như lòng từ son chân đăng. Đưa người mau ra lòng mê lầm. Hư không chim bay đường như tranh. Lưu truyền quanh co triền non xanh. Người đi xa xa làn mây trôi. Di Đà chân như này tâm lành. Ôi câu hồng danh mầu thâm xa! Sâu cùng chư tông làng Thiền na. Buông ra thâu vào đều như như. Tương tư tâm đầy trời liên hoa… (Trích: Khuyên tu pháp môn niệm Phật – Pháp sư Viên Anh) Đi thì nhất trí niệm Di Đà, Một bước thì là một câu qua, Dưới chân thời thời đều Cực Lạc, Trong lòng phút phút thoát Ta Bà. Trồng hoa bón liễu không dời bỏ, Trèo non lội suối cũng niệm ra, Cực Lạc các anh đều lên cả, Mười phương đi lại mặc vào ra. Đứng thì niệm Phật khéo quán thân, Trong tứ đại này chỉ nó chân, Ta với Di Đà nào có khác, Ảnh thêm trăng sáng đúng tam nhân. Căn nhà sắp mục nên khó ở, Tịnh độ tuy xa lại dễ sinh, Như ve ngày nào vừa thoát xác, Hoa sen ngàn cánh hoá kim thân. Ngồi thì quán Phật tréo kiết già, Thẳng mình đoan chính trên đài hoa, Tướng lông trắng giữa chân mày hiện, Thân sắc vàng tươi hợp với tâm. Việc như mộng huyễn vốn tịnh không, Rốt ráo viên dung chằng có không, Ngày nào khéo tỉnh chân thiền toạ, Cực lạc niết bàn mặc sức qua. Lúc nằm niệm Phật chớ phóng tâm, Buộc chặt hồng danh trong lặng câm, Vừa nằm gió mát đưa qua mặt, Đến canh ba trăng sáng vằng vặc. Không như trần luỵ tâm khó dứt, Sinh tại hoa sen mộng dễ thành, Giấc ngủ chập chờn chư Phật hiện, Tỉnh ra cảnh ấy khá rành rành. ( Thiền sư Phạm Kỳ) Đời người trăm tuổi, ai trăm tuổi? Chuyện cũ quay nhìn, chuyện mộng mê! Nghĩ khóc đồng lưu đi lạc mất, Lãng quên cõi Tịnh chẳng lo về! (Tư Tề Lão Nhân) Đêm dài dễ mông về thôn cũ, Năm hết không quên phận lữ hành. Mười vạn ức đường quê Cực Lạc, Tấc lòng mang mển những câu canh! (Sở Thạch Lão Nhân) Nói đến vô thường mọi việc khinh, Đói ăn khát uống biếng kinh dinh. Một lòng khuyên hướng trời An Dưỡng. “Vạn thiện đồng quy” nhớ Vĩnh Minh! Mãng tưởng ngày về chưa đến ngày, Bên trời du tử mộng hồn bay! Tỉnh mơ, tiếng nhạn rơi đêm vắng, Tin tức miền Tây chậm vãng lai? (Thiền sư Liên Ẩn) Tóc sương thay mái đầu xanh, Một đời sự nghiệp nghĩ thành không hoa! Soi bổn phận, lánh đường tà. Âm thầm thời tiết đổi. Lặng lẽ tháng ngày qua. Kíp mau tìm đến chơn thường lộ, Dám chậm chờ xem bệnh tử mà! Cõi Phật đâu xa cách? Về chăng chỉ tại ta! Mỗi niệm chỉ cần không thối chuyển. Ao vàng đã sẵn có Liên hoa. Thân tàn về cõi báu, Sen nở thấy Di Đà! (Thiền sư Tra Am) Lầu quỳnh cách biệt những năm xưa, Lỗi cũ đường xa bước trở về, Tháng ngày hờ hững, Tóc điểm hoa lê! Lòng theo bóng nguyệt trời Tây xế, Lắng tai nghe chim tiếng nhớ quê Lá thu rơi rụng… Tấc dạ não nề! Đỉnh trầm xông đốt ngân hơi khánh, Hướng cõi Liên Bang phát nguyện thề: Ta Bà đã chán chê!... ( còn tiếp) |
|||
28-12-2016, 11:33 AM
Bài viết: #194
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
( Thiền sư Linh Thoại)
Ngày tháng chim lồng quanh quẩn, Thân người bèo nước linh đinh Trăm năm tạm gởi kiếp phù sinh, Há lại mơ màng chẳng tỉnh? Đem mối trần duyên rũ sạch, Đừng cho mộng cảnh lưu đình. Di Đà sáu chữ ấy chơn kinh, Đường lối tu hành tiệp kỉnh! Chẳng luận sang, hèn, ngu, trí. Không phân già, trẻ, gái, trai. Có tâm làm được đấng Như Lai, Lời thật lưu truyền vẫn tại! Sáu chữ Di Đà rất dễ. Một lòng tưởng niệm đừng sai. Thân này thề chiếm tử kim đài, Gắng giữ niệm tâm chớ trái! (Thiền sư Triệt Ngộ) Tiếng Phật thường nghe Huệ quang thường chiếu Một câu A Di Đà Đích đáng chính tà tâm Nấu tiêu muôn vật tượng Tan vào một lò hồng. (Đại sư Hoằng Nhất) Đức Phật A Di Đà. Là vô thượng y vương. Nếu bỏ đây không cầu Ấy là kẻ si cuồng! Một câu hồng danh Phật. Là thuôc diệu Di Đà. Nếu bỏ đây không uống. Thật lầm to lắm mà! (Thiền sư Tánh Thiên) Niệm Phật tội nghiệp tiêu khô Như sương tan nắng như hồ nước trong Niệm Phật để được tấm lòng Kẻo mà trắc ẩn mắc vòng gian nan Niệm Phật Cực Lạc hân hoan Ta Bà khổ não giàu sang mấy hồi. Sáu chữ hồng danh trời đất chuyển Ba ngàn thế giới hiện toàn chân (Minh Vương) Trên trời dưới trời không ai bằng Phật Đức từ bi Ngài cứu khắp quần sinh Có những chúng sinh tạo nhiều tội ác Đoạ vào địa ngục chịu khổ cực hình Chỉ nghe một câu A Di Đà Phật Dầu sôi lửa dữ tức khắc biến thành Tất cả tội nhân đều được vãng sanh Ao nước thanh lương (mát mẻ) Tây Phương Cực Lạc đức từ bi ấy Hết sức cao cả con không thể gì Dùng lời diễn tả chỉ có chí thành Tánh mạng nương về nơi đấng Lưỡng Túc (Đại sư Hám Sơn) Niệm Phật vốn vì siêu sinh tử Si, Ái chính là rễ sinh tử Không nhổ rễ này khó giải thoát Si, ái tức là tâm niệm Phật Tức đem niệm Phật dứt si, ái Si, ái nếu hay niệm niệm đoạn Tâm tâm Di Đà toàn thân hiện Chẳng thể tạm quên trong một niệm Tịnh độ ở ngay trong tâm tịnh Chẳng được tìm kiếm ở bên ngoài (Tổ Hoàng Niệm) Niệm Phật kỵ nhất Tinh thần tán loạn Tiếng niệm mơ hồ Trước nhanh sau chậm Không có âm điệu Lại không nối liền Tâm không hợp miệng Thanh không nhiếp niệm Nuôi dưỡng ý thức Người xưa than rằng Cách niệm như vậy Rất khó thành phiến Tiếng hòa nhịp đều Chữ ngay âm rõ Thành khẩn khắn khít Điềm đạm an nhàn Thanh hợp với tâm Tâm hợp với thanh Thanh tâm nối liền Vọng niệm tự dứt Phật hiệu như châu Tâm như sợi dây Phân thì cách ly Hiệp thì thành xâu Tâm không rời Phật Miệng không rời niệm Như dây xỏ châu Liên tục không dứt Chưa được nhất tâm Trước cầu chuyên niệm Chưa được không loạn Trước học thành phiến Thật là chuyên cần Hiệu quả tự thấy Không phải hỏi người Hãy xin tự xét Có đại phước đức mới niệm Phật Phát bồ đề tâm tu Thập thiện Phật nói vô thượng thâm diệu thiền Người thường xem như Pháp nông cạn Oai nghi trang nghiêm nghiệp thanh tịnh Kiên quyết giữ giới đừng để phạm Phá bỏ cửa nhân ngã thị phi Buông bỏ bình sinh đều hiểu biết Nói huyền nói diệu không liên can Ba chữ chân truyền thâtj thà niệm Đó là cây đèn trong đêm tối Thuyền trong biển khổ, kiếm chém ma Nhổ gốc sinh tử trong nhiều kiếp Liều thân này làm kẻ ngu ngốc Năm tông tám giáo một câu tóm Đừng ở ngoài niệm tìm phương tiện Chậm quá nhanh quá đều là bệnh Càng mong nhất tâm tâm càng loạn Chí cứng như sắt, dạ như tơ Không dán không tạp tự thành phiến Nhân tâm quả Phật cùng cảm ứng Thân thể cảnh giới dần chuyển biến Phiền não chưa dứt niệm không nhất Tập khí không trừ Phật không hiện Lúc ngàn vạn câu như một câu Đâu lo không thấy mặt Di Đà Chuyện này không dễ cũng không khó Tam-muội đều nhờ tín nguyện hạnh Đán chỉ lão thật niệm Bất tất vấn như hà Mạc quản đồng dữ dị Hưu luận tự dữ tha Chỉ quý nguyện lực cường Ná phạ vọng tưởng đa Tán loạn cố thành bệnh Phân biệt dị thập ma Cảnh duyên vô hảo xú Phật hiệu nhất tảo quá Cú cú niệm năng chân Quyết định xuất Ta Bà Tạm dịch: Chỉ cần thật thà niệm Không cần hỏi tại sao Đừng lo giống và khác Không luận mình và người Chỉ quý nguyện lực mạnh Không sợ vọng tưởng nhiều Tán loạn nhiều thành bệnh Phân biệt dễ vào ma Cảnh duyên không tốt xấu Phật hiệu đều quét sạch Câu câu niệm được chân Quyết định thoát ta bà Di Đà giáo ngã niệm Di Đà KHẩu niệm Di Đà thính Di Đà Di Đà Di Đà trực niệm khứ Nguyên lai Di Đà niệm Di Đà. Tạm dịch: Di Đà dạy tôi niệm Di Đà Miệng niệm Di Đà nghe Di Đà Di Đà Di Đà cứ niệm luôn Hèn chi Di Đà niệm Di Đà |
|||
29-12-2016, 06:15 AM
Bài viết: #195
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
(Đại sư Thiên Như)
“ Mai lại A Di Đà Chiều cũng A Di Đà Dù gấp như tên bắn Không rời A Di Đà”. (Thiền sư Sở Thạch) Cha lành Cực Lạc hiệu A Di Tiếp dẫn chúng sinh đến Bảo trì Đường cũ phẳng phiu nhàn nhã bước Quê xưa, Từ phụ ngại ngùng chi! (Đại Trí Lục Sư) Cực Lạc Tây Phương thật dễ cầu Cuối thu lá đổ nghiệp còn đâu Lần châu lần mãi không ra mối Mới biết Di Đà ước nguyện sâu! (Đại sư Châu Hoằng) Làm phước không niệm Phật Phước hết phải trầm luân Niệm Phật không làm phước Vào đạo nhiều gian khổ. Không phước chẳng niệm Phật Đoạ vào ba đường ác Niệm Phật còn làm phước Sau chứng Lưỡng Túc Tôn. Bệnh từ thân sinh Thân từ nghiệp sinh Chẳng tạo các nghiệp Hoạ tiêu phước tăng. Ta Bà niệm Phật Cực Lạc nêu danh Nhất tâm bất loạn Thượng phẩm thượng sinh Trì giới niệm Phật Khất thực nuôi thân Làm như thế đi Pháp thoại đã xong. Có sinh ắt có tử Thọ yểu đâu đáng bàn Nay được thành tướng Tăng Đời này nguyện đã mãn Luôn thấy rất hoan hỷ Chớ nên ôm lo buồn Muôn duyên đều buông bỏ Chỉ nhất tâm niệm Phật Vãng sinh cõi Cực Lạc Ở hoa sen thượng Phẩm Thấy Phật ngộ Vô sinh Trở lại độ tất cả. Nguyên tác: Nhắc lại việc xưa, thật xót thương! Trọn năm cô quạnh Niết bàn Đường Trước cửa vắng khách, song không giấy Trong lò tro lạnh, chiếu đượm sương. Bệnh rồi mới biết thân là khổ Lúc khoẻ bôn ba bận việc người Lão Tăng có pháp an nhàn thật Tám khổ nấu nung chẳng ngại nào! Hoạ lại: Thần huyễn đâu hay sẽ rã tan Ngẩng đầu kinh hãi Niết Bàn Đường Một thời đã hết tàn cơn mộng Toan tính muôn điều, vầng nhật sương. Nghiệp cũ tạo nhiều, tâm rối loạn Đường trước hiểm nguy, chân chẳng an Hôm nay muốn hỏi an nhàn Pháp? Khát đến đào giếng kịp được nào! Vào cửa Không suông rất đáng thương Niết bàn là Tăng thi cử trường Đốt thiêu ngũ tạng, cá trong chảo Các căn đau đớn, cỏ bị sương. Ôm giữ thiền si, thành tranh luận Học tu ngoại thuật luống nhọc nhằn Mọi người bảo có an nhàn pháp Một câu sắp đi nói thế nào? (Đại sư Thiện Đạo) Da mồi tóc bạc lần lần Lụm cụm bước run mấy chốc Dẫu sang vàng ngọc đầy nhà Vẫn khổ suy già bệnh tật Ví hưởng khoái lạc nghìn muôn Đâu khỏi vô thường chết mất Duy có đường tắt tu hành Chỉ niệm A Đi Đà Phật! (Mỗi câu thành một bài thơ) Da mồi tóc bạc lần lần Thời gian âm thầm ngồi thôi thúc Thấy người già cả sót thương Chẳng biết quan sát thân mình Phải rõ thân này chẳng thật Tựa như bọt nước trôi sông Khuyên người kịp thời niệm Phật Đừng đợi đến khi già yếu. Lụm cụm bước run mấy chốc Chẳng còn đi xa được nữa Nhớ lại năm xưa mạnh khoẻ Luống uổng long dong cả đời Chưa từng đạp trên đất thật Nào biết xét tỉnh lại mình Khuyên người kịp thời niệm Phật! Dẫu sang vàng ngọc đầy nhà Ngày đêm lo lắng tính toan Một mai nhắm mắt xuôi tay Đều do người khác làm chủ Quên mất kho báu nhà mình Đuổi theo ngói gạch kẻ khác Khuyên người dốc lòng niệm Phật Tây phương chính thật đất báu. Vẫn khổ suy già, bệnh tật Trên đời khó kẻ tin được Chỉ cậy sức mình mạnh mẽ Nào xét già bệnh theo chân Một mai triền miên giường bệnh Tám khổ nung nấu đốt thiêu Khuyên người gắng sức niệm Phật Vào thẳng thai sen gởi chất. Ví hưởng khoái lạc nghìn muôn Đâu biết vui là nhân khổ Thân này chỉ toàn nghiệp tội Muôn kiếp đâu khỏi trầm luân Thiện ác, U minh có sổ Tên tuổi đều ghi rõ ràng Khuyên người một lòng niệm Phật Ánh tuệ xua tan tình mê. Đâu khỏi vô thường chết mất Một hôm buông hết muôn thứ Chỉ lấy mảnh đất non xanh Xương trắng vùi sâu nơi đó Không một vật gì là ta Chẳng đem theo được mảnh may Khuyên người lo niệm Phật trước Gốc sen vun bồi chắc sâu. Duy có đường tắt tu hành Một ngày hơn cả muôn đời Chỉ quý hạnh nguyện nơi người Cũng nhờ ánh sáng của Phật Chánh định thường luôn thành tựu Tội lỗi mỗi niệm băng tan Khuyên người tín tâm niệm Phật Đài sen Thượng phẩm nêu danh. Chỉ niệm A Di Đà Phật Chẳng cần tìm pháp môn khác Ngay đây chuyển phàm thành Thánh Giống như cá chép hoá rồng Câu câu liên tục không dứt Chữ chữ gương soi chẳng mờ Muốn được thấy Phật liền thấy Thôi bàn Tịnh độ, Ta Bà. Sáng sớm Dần: Mặc áo ra cửa chỉnh tâm thần Chắp tay dâng hương trông Cực Lạc Ân cần xa lễ Tử kim thân. Bình minh Mão: Niệm Phật chẳng nên luận nhiều ít An trụ chuyên tâm buộc một duyên Chớ để vọng ảnh làm quấy nhiễu. Điểm tâm Thìn: Niệm Phật trước phải dẹp ngã nhân Nếu đem niệm Phật cậy nhân ngã Bao giờ mới thành tịnh độ nhân. Gần trưa Tỵ: Tiến tu Tịnh độ phải quyết chí Như uống Cam lộ tự biết ngon Thôi đừng chê người đạo chẳng đúng. Đứng bóng Ngọ: Tưởng niệm Di Đà như mắt thấy Vô biên nghiệp chướng tự nhiên tiêu Há lại bảo rằng luống gian khổ! Buổi trưa Mùi: Sinh tử mênh mông thật đáng sợ Chẳng chọn Tây phương nhanh chóng qua Trần sa kiếp hải phải chìm đắm. Xế chiều Thân: Gấp phải trì tịnh độ nhân Khoẻ mạnh nếu không siêng niệm Phật Một hôm bỗng thành đống bụi trần. Tà dương Dậu: Biết rõ quang cảnh chẳng thể lâu Xem xem vô thường liền chợt đến Chớ để Phật hiệu lìa tâm khẩu. Hoàng hôn Tuất: Chớ để thân tâm nhiều lầm lỗi Thập ác tuy nhiên cũng vãng sanh Sao bằng Thượng phẩm sen nhanh nở! Đêm về Hợi: Thân tâm niệm Phật chơn Tam-muội Thập địa cao nhân còn phải tu Nên biết không tin ắt mang tội. Canh khuya Tý: Sớm sớm niệm Phật thường như thế Đều nương hoa sen để vãng sinh Từ đây quyết định không sinh tử. Gà gáy Sửu: Tráng kiện bỗng nhiên thành suy lão Mênh mông biển cả chẳng ai thân Chỉ có Di Đà riêng vẫy gọi. Một khuyên anh: Luôn luôn niệm Phật phải chân thật Y theo lời Phật chớ hồ nghi Điều phục tâm viên, đừng phóng dật! Hai khuyên anh: Chỉ nhớ niệm Phật, không việc khác Lắng tâm quyết định nguyện về Tây Lâm chung tự thấy Như Lai đến. Ba khuyên anh: Niệm Phật trước phải trừ tham ái Lâm chung tâm định thấy Di Đà Tợ trăng sáng tỏ, soi đầm biếc. Bốn khuyên anh: Chớ nên lãng quên tâm niệm Phật Lâm chung Cực Lạc sen báu rước Quán Âm, Thế Chí đều lai nghinh. Năm khuyên anh: Chớ ngại niệm Phật nhiều khó khổ Tư duy muôn kiếp dòng sinh tử Lại hướng về ai cầu ra khỏi? Sáu khuyên anh: Trong khi niệm Phật luôn tiếp nối Nếu như không niệm thuận tình phàm Bao giờ ra khỏi ngục sinh tử? Bảy khuyên anh: Niệm Phật chớ để ba nghiệp lỗi Chuyên cần kĩnh lễ nguyện Tây phương Thấy Phật Di Đà vầng tuệ nhật. Tám khuyên anh: Dạy tu niệm Phật pháp Mâu ni Phải nên vâng theo Bổn sư chỉ Mạng chung vãng sinh cõi Di Đà Chín khuyên anh: Niệm Phật chân thành là trước nhất Lâm chung hoá Phật đến đón đưa Hoa sen bảy báu tuỳ nguyện nở. Mười khuyên anh: Niệm Phật thường phải tâm niệm gấp. Tư duy biển nghiệp khổ thâm sâu. Sinh tử rối ren, hối khó kịp! Ngũ ấm hư vọng, mộng huyễn thân Nhờ duyên bồi đắp đống bụi trần Tử thần chợt đến sao chống đỡ Gấp niệm Di Đà gắng chuyên cần! |
|||
29-12-2016, 06:22 AM
Bài viết: #196
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
(Đại sư Vĩnh Minh)
Một câu Di Đà vạn pháp vương. Năm thời, tám giáo phán tinh tường. Hành nhân chỉ việc chuyên trì niệm. Sớm nhập tịch quang bất động thường. (Đại sư Liền Trì) “ Niệm lên danh hiệu Phật Muôn đức đủ đầy trong. Chuyên trì danh hiệu ấy, Muôn hạnh đủ không sai”. (Đại sư Ngẫu Ích) Trì giới tiện thị bình tâm, Niệm Phật tiện thị trực hạnh, Tham đắc cá điểm huyền quan, Bất đồng bát vu thảo bính, Nhược tiện giả, dã, chi, hồ, Thất khước Phật, Tổ tánh mạng. Tạm dịch: Trì giới là để tâm bình, Niệm Phật là hạnh để mình tu thân, Lẽ mầu dù ngộ một phần, Chẳng bằng tu tập tinh thần đó thôi, Cứ luận giáo nghĩa suông hoài, Tánh mạng Phật, Tổ mất rồi còn đâu. Trú dạ Di Đà thập vạn thanh, Tất sinh mạc khởi Tông, Giáo tưởng, Trực tâm tông quy Cực Lạc bang, Liên nhuỵ trân trì lập địa trưởng, Nhậm tha tiếu ngã thị si phu, Hành xích tùng lai thắng huyết trượng, Tha niên mạch thượng nguyện vương châu Thiện Tài thường đề đồng phủ chưởng. Tạm dịch: Ngày đêm mười vạn tiếng Di Đà, Ắt được vãng sinh, đừng nghĩ tưởng Này đây là Giáo kia là Tông! Gởi thẳng lòng về chốn Lạc Bang, Ao quý, đoá sen tươi tốt mãi, Mặc ai cười mình là gã cuồng, Từ rày làm ít hơn nói suông Năm nao chợt ngự thuyền nguyện vương, Thiện tài thường kêu vỗ tay mãi. (Đại sư Tĩnh Am) Lúc đi dễ thuận niệm Di Đà Một Phật tuỳ theo một bước qua. Dưới gót hằng thời chơi Tịnh độ, Trong tâm mỗi niệm cách Ta Bà. Dạo quanh hoa liễu nhưng thường nhớ, Lên xuống non sông vẫn chẳng xa. Đợi lúc vãng sinh về Cực Lạc, Mười phương du ngoạn tự như mà! Khi nằm niệm Phật thật lặng thinh, Hơi thở nương theo giữ hiệu danh. Một gối gió thanh trong vạn dặm. Nửa giường trăng sáng khoảng ba canh. Đã không trần luỵ tâm yên tịnh Duy có liên hoa mộng dễ thành. Giấc điệp mơ màng chư Phật hiện, Tỉnh ra còn vẫn nhớ phân minh. Nam mô A Di Đà, Người nào không biết niệm? Tuy niệm, chẳng tương ưng, Mẹ con khó hội kiến! Khi đi, đứng, ngồi, nằm Đem tâm này thúc liễm, Mỗi niệm nối tiếp nhau Niệm lâu thành một phiến. Như thế niệm Di Đà Di Đà tự nhiên hiện! Quyết định sang Tây phương, Trọn đời không thối chuyển! (Đại sư Thật Hiền) Di Đà thệ lớn há nguyện không Mười niệm xướng danh chẳng luyến công. Chớ ngại cõi trần e vắng khách, Chỉ lo lưới nghiệp cuốn trăm vòng! Muôn sông về biển bờ đâu ngập, Trăm nước chầu vua điện vẫn thông. Dễ đến không người, ôi đáng tiếc Việc chi còn mến cảnh lao lung? Thương chê Niệm Phật việc người ngu Công việc người ngu, Phật cũng tu. Long thọ biện tài, đâu ngốc Hán? Văn-thù trí hụê há phàm phu? Từ chương nhã luận còn Cư Dị? Công cứ theo mình hỏi Đại Tô? Nhắn kẻ thông minh nên nghĩ lại. Diêm La xét tội chẳng hồ đồ? Người đồn Thiên Trúc chính Tây Phương Thiên Trúc, Chi Na chỉ cách tường. Nghiệp ở cõi nhơ bàn tịnh, uế Thân nơi nhà lửa luận viên lương. Ba ngàn thế giới trong luân chuyển, Mười ức càn khôn thật cố hương. Quyết đến chớ sầu đường cách trở, Niệm tâm vừa tịnh thấy không Vương Ai rằng mọi chỗ tức Tây trì Cao, thấp, sạch, nhơ sá ngại gì? Nhà xí khi vào sao bịt mũi? Vũng lầy quá bước vén xiêm y? Ốm đau lắm, lại thương thân khổ, Mưa nắng chiều, than trái tiết thì. Chớ nói lời suông sai thật hạnh, Hồi tâm mau sớm niệm A – Di Nếu nói sinh Tây còn thuộc vọng, Trụ nơi cõi trược há thành chân? Đông, Tây chẳng chấp càng phi lý, Tịnh, uế đều quên cũng pháp trần. Sinh vốn không sinh, sinh bốn cõi Thấy như lìa thấy, thấy ba thân Biết chăng chân, vọng nguyên đồng thể? Mê, ngộ đều do tại bản nhân. Chớ chấp đàn kinh bài bác Tịnh Tổ cơ, lời Phật thảy viên dung. Mượn ngôn chỉ lý tuyên Thiền đạo, Được ý quên lời hiển diệu tông. Thập thiện đều tu đâu phải tội? Chư hiền đồng niệm há thành không? Đông Tây nhất thể vô lai khứ. Pháp giới linh minh cõi đại đồng Niệm Phật quả như nên súc miệng, Tụng kinh môi ngậm cũng ưng cần. Thuốc dùng trị bệnh, sao gây bệnh? Lửa để điều thân, lại đốt thân! Phàm niệm đầy tràn, chê Thánh niệm, Phật tình chưa khởi, nói trừ nhân. Lời xa hiện thật, khuyên ngưng lại, Lo gấp đời này thoát khổ thân. Niệm Phật viên thông nhiếp sáu căn, Nhĩ căn ai bảo chiếm ưu phần? “Âm văn” nếu quả viên đường thể, “Danh tự” đâu là khởi, diệt nhân? Dùng niệm “niệm danh”, danh vẫn thiết, Đem nghe “ nghe phật”, Phật càng gần. Xét ra hai Thánh đều huynh đệ, Đồng giúp Di Đà tiếp vãng sinh, (Đại sư Triệt Ngộ) Một câu A Di Đà Đích đáng chính là tâm Nếu tiêu muôn vật tượng Tan vào một lò hồng Nhất cú Di Đà Nhất Đại tạng luật. Miệt nhĩ tịnh tâm Giới Ba La mật. Tạm dịch: Một câu A Di Đà Là một Đại tạng luật Chớp mắt vào tịnh tâm Đủ giới Ba La Mật. Nhất cú Di Đà Nhất đại tạng luận Đương niệm tâm khai Huệ quang như phúng Tạm dịch: Một câu A Di Đà Là một Đại tạng luận Đương niệm tâm mở thông Ánh huệ tuôn vô tận. Nhất cú Di Đà Nhất tạng bí mật. Phát bản thần thông Cụ đại uy lực. Tạm dịch: Một câu A Di Đà Là một tạng bí mật. Phát nguồn cội thần thông Đầy đủ uy lực lớn. (Đại sư Ấn Quang) Tuần hoàn kiếp số rất bi thương, Thoát khổ đâu hơn Cực Lạc bang Gắng niệm Di Đà về bản cảnh, Đừng mê trần luỵ lạc tha hương. Bụi hồng nghiệp trước đời như mộng Lửa đỏ ngày sau nước hoạ ương. Khuyên sớm xa nơi nhiều kiếp nạn, Cùng nhau dạo bước đến liên phương. Tâm niệm quá nhiều phiền phức thật! Xưa nay nặng niệm khó muôn vàn! (Niệm đầu thái đa chân phiền não. Cổ lai nhất niệm tối nan bình). (Pháp sư Đạo Chứng) Khi bạn đang khóc Hãy biết tôi cũng đang nhỏ lệ, Khi bạn đang vui Hãy biết tôi cũng đang hoan hỷ, Bất kể lúc nào và ở đâu, trong tín tâm niệm Phật Chúng ta mãi bên nhau Và bên đức Phật, Bồ tát. Khi bạn đang một mình, Chớ nghĩ mình cô đơn Hãy nghĩ có hai người Khi hai người chúng ta bên nhau Hãy nghĩ có ba người Vị kia chính là đức Phật A Di Đà, Bạn đi đến đâu Phật theo bạn đến đó… |
|||
dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này: baothai (31-12-2016 07:18 AM) |
22-01-2017, 06:12 AM
Bài viết: #197
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
|
|||
dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này: baothai (29-01-2017 10:05 PM) |
27-01-2017, 05:57 AM
Bài viết: #198
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
|
|||
dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này: baothai (29-01-2017 10:05 PM) |
07-02-2017, 03:57 PM
Bài viết: #199
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
|
|||
02-03-2017, 09:48 PM
(Được chỉnh sửa: 03-03-2017 12:31 AM bởi dieuquang.)
Bài viết: #200
|
|||
|
|||
RE: NEW TOPIC'S DQ
KINH DƯỢC SƯ-HT Thích trí Quảng
Tình cờ dq dự một đạo tràng Dược Sư dịp tháng giêng Đinh Dậu.Do hiểu biết nông cạn cùng cái chấp chưa bỏ nên khi cầm cuốn Dược Sư do Ht Thích trí Quảng soạn , thấy một lấn cấn và kg để ý nữa. Nhưng có lẻ duyên bắt buộc dq phải xem kỷ lại và tìm hiểu thì ra : do sự tối tâm , ngu dốt mà kg thấy cái hay trong đó. Vì thế dq mạn phép lấy cái tìm hiểu cừa một người thường mà kg là mọt Phật từ để mạnh dạn đưa lên dù rằng mình chưa được cho phép góp đăng> Trước mắt dq xin chú ý lại bài chú ĐẠI BI. Bài chú này vốn được Hoà Thượng Thích Thiền Tâm chuyển ngữ qua tiếng Việt từ văn Hán việt gồm 84 câu với 415 chữ mà giới Phật tử Việt Nam ta quen trì tụng xưa nay. Gốc từ bản của ngài Tôn Pháp -Dà Phạm-Đạt-Ma (Bhagavaddharma) một Thiền sư Ấn Độ, du hóa qua Trung Quốc vào niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán khoảng 650 – 660. Bản dịch của Sa môn Tôn Pháp ra chữ Hán có tên: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (Một bằng chứng cụ thể của việc dịch của Tôn Pháp là mười hai quyển của bản kinh Nīlakaṇṭha Lokeśvara bằng chữ Hán được tìm thấy trong động đá Đôn Hoàng( 敦煌 ) dọc theo Con đường Tơ Lụa (Silk Road), ngày nay thuộc tỉnh Cam Túc (甘肅) ở Trung Quốc. TRƯỚC MẮT XIN GHI LẠI BÀI TIẾNG VIỆT CỦA HT THÍCH TRÍ QUẢNG để bà con xem qua NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần) Đà la ni của tâm đại bi vô ngại: Con xin quy y Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo. Nguyện theo Bồ tát Quan Âm, vì Ngài có đủ sức mạnh của tâm đại bi. Con xin quy y với đấng cứu giúp loài người ra khỏi tai nạn. Vì Ngài có đủ thần lực nên gọi là Đấng toàn năng. Con xin trì tụng thần chú của Ngài. Thần chú làm cho chúng sanh được an vui lợi ích. Thần chú rất là thù thắng, vì nó làm cho ác ma không thể tới gần; thật là linh nghiệm vì nó có thể tịnh hóa thế giới sanh tử luân hồi. Hãy tụng Thần chú như sau: Cúi xin Đấng sáng chói, Đấng có trí tuệ sáng chói, Đấng siêu thoát thế gian, Bậc sư tử vương, Bậc Bồ tát vĩ đại! Xin Ngài hãy ức niệm chơn ngôn, trì tụng chơn ngôn, làm cho chơn ngôn linh nghiệm. Đấng tối thắng, hỡi Đấng tối thắng! Xin Ngài làm cho thần chú linh nghiệm. Đấng đại tự tại! Xin Ngài phát huy sức mạnh thần thông tự tại. Xin Ngài phát huy sức mạnh đại tự tại. Đấng không ô nhiễm, Đấng xa rời trần cấu, Đấng có thân hình không ô nhiễm! Hãy đến, xin Ngài xuất hiện. Đấng tự tại trong đời! Xin Ngài trừ độc tham lam, trừ độc sân hận, trừ độc ngu si tham ái, trừ sạch phiền não nhiễm ô. Đấng sư tử vương! Xin Ngài xuất hiện, tiến lên, hãy tiến lên. Đấng giác ngộ! Xin Ngài làm cho chúng sanh giác ngộ. Đấng có đầy đủ lòng từ! Chúng con muốn được thấy Ngài, lạy Ngài.Xin Ngài ban cho an vui hạnh phúc, mọi điều mong ước đều được thành tựu. Bậc thành tựu đệ nhất! Xin ban cho con thiền định an vui, sức mạnh vô cùng. Đấng thành tựu vĩ đại! Người mặc giáp đen, mình choàng da hổ, tay cầm hoa sen, tay cầm kim cang, tay cầm pháp loa giác ngộ mọi người, tay cầm tích trượng chiến đấu và cũng chiến thắng, bên tả thì có mãnh thú, bên hữu lại có sư tử trợ lực. Xin ban cho con an vui, hạnh phúc. Con xin quy y Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo. Con xin quy y Bồ tát Quan Âm, tất cả ước mơ đều được thành tựu. Thật linh nghiệm, thần chú thật linh nghiệm, thần chú của Đấng toàn năng thật là linh nghiệm. NAM MÔ ĐẠI BI QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT (3 lần) qua bản này dq thấy được thầy đã Việt nghĩa hoàn toàn bài chú mà đại đa số chúng ta trì chú mà thật ra không hiểu về ý nghĩa, dỉ nhiên trong đó có cái tóm ý, gọn nghĩa hơn so với bài chú ĐẠI BI CHỬ PHẠN sau đây: HT KIM CANG TRÍ Thiên thủ thiên nhãn Quán tự tại bồ tát quãng đại viên mãn vô ngại Đại bi tâm đà la ni. Nẵng mồ rà đát ra dạ da (nammo rānatrayāya – đãnh lễ Tam bảo). 2. Nẵng mồ a rị da (namaḥ ārya – đãnh lễ bậc thánh). 3. Phạ lô chi đế thấp phạt ra da (avalokiteśvarāya – Quán tự tại, người làm chủ cái thấy của mình). 4. Mạo địa tát đa phạ (boddhisattvāya – bồ đề tát đõa, chúng sinh có trí tuệ) 5. Mang hạ tát đa phạ da (mahāsattvāya – đại chúng sinh, vị hữu tình vĩ đại) 6. Mang hạ ca rỗ nị ca ya (mahākaruṇikarāya – lòng từ mẫn vĩ đại, đại bi) 7. Tát ma mãn đà (sarvabandhāna – mọi trói buộc) 8. Nẵng thứ na nẵng ca ra da (chedanakarāya – được chặt dứt, bị trừ diệt) 9. Tát ma bà phạ (sarvabhava – mọi hữu thể, tất cả khởi nguyên) 10. Sa mẫu nại lao tạc sái noa ca ra da (samudraṃsukṣaṇakarāya – Làm cho biển khổ khô cạn) 11. Ta ma di dạ địa (sarvavyadhi – mọi phiền não bức bách) 12. Bạt ra xã mang nẵng ca ra da (prasamanakarāya – sở tác thanh tịnh, được tịnh hóa toàn diện) 13. Tát ma đễ đa dữu bạt nại ra phạ (sarvetityubhandrava – tất cả tai ương) 14. Vĩ na xã nẵng ca ra da (vināśanakaraya - ) 15. Tát ma bà duệ số (sarvabhayeṣyo – tất cả sự sợ hải) 16. Đát ra noa ca ra da (tārānakārāya – thực hiện sự cứu độ) 17. Đã tư mẫu nẵng tư kiết rị đa phạ y na ma ha rị dạ (tasmai namakṛtvā inamarāya – tôi đãnh lễ bậc thánh như thế của tôi) 18. Phạ rô chi đế thấp phạ ra bà sử đơn nhi la kiến xá bế (avalokiteśvaralaṃtābha – sở y quán tự tại) 19. Nẵng ma hiệt rị na da (nāma hṛdāya - gọi là tính cốt lõi) 20. Ma vật thích đã dĩ sử dạ dị (avrataicchayāmi – hôm nay tôi tuyên bố) 21. Tát mạt tha ta đà kiến (sarvāthasadhanaṃ suddhanaṃ - mọi lợi lạc thành tựu) 22. Tuất (mậu) bạn a nhi diên (ajiyaṃ - siêu việt ; mọi hữu thể không thể so bì) 23. Tát mạ bộ đa nam (sarvabhutanaṃ - mọi hữu thể) 24. Bà phạ mạt ngoa vĩ tuất đà kiếm (bhavamargaviśuddhakaṃ - có lộ trình dẫn đến thanh tịnh) 25. Đát nhĩ dã tha (tadhytha – như thế) 26. Án a lộ kế a lộ ka mang đế (oṃ āloke ālokāmati) 26. Án a lo kế a lộ ka mang để (oṃ āloke ālomati) 27. Lộ ca để ngật lan để hệ hạ lệ a rị da (lokātikramtehehare ārya) 28. Phạ lô chi đế thấp phạ la (āvalokieśvara) 29. Mang hạ mạo địa đát đa phạ (he mahābodhisattva – mừng thay đấng đại bồ đề) 30. Hệ mạo địa tát đa phạ (he bodhisattva) 31. Hệ ma hạ mọa địa tát đa phạ (he mahābodhisattva – vui thay! Đại bồ tát) 32. Hệ ti rị dã mạo địa tát đa phạ (he viryabodhisattva – tinh tấn bồ tát) 33. Hệ mang hạ ca lô nị ca (he mahākāruṇika – vui thay! Đấng đại bi) 34. Đỗ mang ra hiệt rị na diên (smīrahṛdayam – trì niệm tính cốt lõi; trì niệm tâm đại bi) 35. Tứ tứ hạ lệ a rị da (hihi hare ārya – mừng thay! bậc thánh) 36. Phạ lô chi đế thấp phạt ra (āvalokieśvara) 37. Mang hệ thấp phạ ra (maheśvara – đại tự tại) 38. Bạt ra mang đa chất đa (pramatracitta – thắng tâm, tâm hoàn chỉnh) 39. Mang hạ ca lô nánh ca (mahākāruṇika – đại bi) 40. Cu lỗ cu lỗ yết mãn ta đại da ta đại da (kuru kuru karmaṃ sadhaya sadhaya – trong sự nghiệp lại làm nên nghiệp lớn) 41. Vĩ nhi diên (vidhyām) 42. Nảnh hê ni hệ đa phạ lan (nihe nihe tavaraṃ - dẫn vào thệ nguyện) 43. Ca mãn ngoa mang (kamaṃgama – siêu ma chướng, diệt ái nghiệp). 44. Vĩ can ngoa mang tất đà dụ nghĩ thấp phược ra (vigamasiddhayugeśvara) 45. Đổ rô đổ rô vĩ diễn đề (dhuru dhuru viyanti – trong đôi ách [tư duy] thành bậc hành không) 46. Ma hạ vĩ diễn đề (mahāviyaṃdhi) 47. Đà ra đà ra đạt lệ ấn niết lệ thấp phược la (dhara dhara dhare indreśvara – đôi ách, đôi ách, từ đôi ách thành bậc tự tại) 48. Tả lã tả lã vi mang lã mang la (cala cala vimala amala – sự ly cấu, sự vô cấu phát sinh) 49. À ri ya (ārya) 50. Phạ rô chi đế thấp phược la (āvalokiteśvara) 51. Nhi (?) ngật rị sử noa (jinakṛṣṇi – diệu tướng của bậc thắng tử) 52. Nhạ tra mang cù tra (jatāmakuṭa – nhục kế như mão pha lê) 53. Phạ lãm ma bạt la lãm ma vĩ lãm ma (varaṃma praṃmaviraṃma – buông thành tràng hoa) 54. Mang hạ ti đà vĩ nhi dạ đà ra (mahāsiddhavidyādhara – trì giữ đại minh chú) 55. Bà ra bà ra mang hạ mà ra (vara vara mahāvara – thệ nguyện, thệ nguyện, đại thệ nguyện) 56. Ma lã ma lã mang hạ mang lã (vala vala mahāvala – chinh phục chinh phục, đại chinh phục ác ma) 57. Tả ra tả ra mang hạ tả ra (cara cara mahācara – hành giả, hành giả , đại hành giả) 58. Ngật rị sử noa vật lật noa nhi lật già (kṛṣṇivṛṇadīrgha) 59. Ngật rị sử noa phả khất sái ni cà đá nẳng (kṛṣṇṇipakṣadīrghatana – bậc trưởng thượng với tinh hoa huyền nhiệm) 60. Hệ pha na mang hạ ti da (he pasmahasti – vui thay! Bậc liên hoa thủ; bậc có bàn tay bằng bông sen) 61. Tả la tả la nãnh xá tả ra thấp phược ra (cārya cāryeśvara – sự tự tại của bậc thánh) 62. Ngật rị sử noa tát ra bạt ngật rị đà dã nhi dụ bạt vĩ đa (kṛṣṇisarpakṛtayajyopavita – sự liên hệ nhuần nhuyển như dược tính chắc lọc từ loài hổ mang) 63. Ế hệ mang hạ phạ ra hạ mẫu khư (ehyehemahāvarahamukha – vui thay! Tướng của đại binh đoàn [trư diện tướng; tướng của loài heo rừng độc chiếc = heo rừng có một nanh]) 64. Đát rị bổ ra na hạ ninh thấp phược ra (tripuradahaneśvara – tự tại siêu tam độc) 65. Nẵng ra dã noa phạ lộ pha (narayaṇavarūpa – sắc thân chắc khỏe như thần Na-la-diên; na-la-diên thân) 66. Phạ la mạt ngoa a rị hệ hề nãnh la kiến xá hê (varamarga he nīlakaṇṭha – Vui thay! Đấng thanh cảnh, con đường chuyển tải thệ nguyện) 67. Ma hạ ca la (mahācala – đại tác dụng, hiệu ứng vĩ đại) 68. Hạ la hạ la (hara hara – chinh phục) 69. Vĩ sa ni nhi đá lộ ca tả (viṣanijitalokasya – sự phát sinh của độc tố của thế gian) 70. Ra ngoa vĩ sa vĩ nẵng xa nẵng (rāgavisavināśana – đó là độc chất tham ái ) 71. Na vị sa vĩ sa vĩ nẵng xa nẵng (dviṣaviṣavināśana – trừ diệt tham sân si) 72. Mộ hạ vĩ sa vĩ nẵng xã nẵng (muhaviṣavināśana – diệt độc ngu si) 73. Hộ rô hộ rô mãng la hộ rô hạ ra (hulu hulu mara hulu hale – tốc thắng, đại tốc thắng trong tám bộ quỷ thần) 74. Mãng hạ phả na mãng nẵng bà (mahāpadmanābha – tên của thần Viṣṇu; người tạo tương lai trong bông sen ) 75. Tát ra tát ra (sara sara – kiên cố, vô hoại diệt) 76. Ti rị ti rị (siri siri – cát tường, cát tường) 77. Tô rô tô rô (suru suru – tuôn chảy cam lộ) 78. Mẫu rô mẫu rô (muru muru) 79. Mẫu địa dã mẫu địa dã (buddhya buddhya – đắc tuệ giác, sở giác) 80. Mẫu đĩa dã mạo đại dã (buddhya buddhya) 81. Nhị đế (maite) 82. Nhĩ ra kiến xá ra hê hề ma mãng tư thể đa ti ưng hạ mẫu khư (nīlakaṇṭha ehy ehe vama sthitasimha mukha – đấng thanh cảnh, mừng thay tướng sư tử trụ) 83. Hạ sa hạ sa (hasa hasa – nụ cười) 84. Muộn tả muộn tả (muṃca muṃca – buông xả, buông xả) 85. Mãng hạ tra tra hạ san (mahāṭātahasaṃ - đại tiếu, nụ cười nổi tiếng, tiếu âm phổ động) 86. Y hê hề bảo mang hạ tất đà dũ nghệ thấp phược la (ehy ehe pammahāsiddhayavidhyaṃ - vui thay, đấng thành tựu vô nhiễm) 87. Sa noa sa noa phạ tế (saṇa saṇa vace – trong ngôn âm này) 88. Ta đại da ta đại da vĩ nhĩ diên (sādhaya sādhayaviddhyaṃ - thành tựu minh tuệ) 89. Ti mang ra ti mang la (smira smira – nhớ lấy, ký niệm) 90. Rô bà ngoa mãn đơn lộ chi đa vĩ rô chi đơn (saṃbhavaṃtaṃ lokitavilokitaṃ - triệt quán viên đức) 91. Lộ kế thấp phược ra đát tha nga đơn (lokeśvaram tathāgataṃ - Thế tự tại vương như lai) 92. Na na hê danh na rị xã nẵng (dadāhi me darśana – khai thị cho tôi, ban cho tôi thị lực) 93. Ca mang tả na rị xã nan (kāmasya darśanaṃ - thị lực hoan hỷ, cái nhìn ngưỡng mộ) 94. Bạt ra ngật lã na da mang nẵng sa phạ (Prakradāyamana svāhā – thành tựu tâm hoan hỷ) 95. Tất đà dã sa hạ (siddhāya svāhā – thành tựu viên mãn) 96. Mang hạ tất đà dã sa hạ (mahāsiddhāya svāhā – viên mãn đại thành tựu) 97. Mang hạ tất đà dã sa hạ (mahāsiddhāya svāhā – viên mãn đại thành tựu) 98. Tất đà dũ nghệ thấp phược lã da sa hạ (siddhayogeśvarāya svāhā – viên mãn việc thành tựu pháp du già tự tại [pháp tu thiền tuệ]) 99. Nhĩ la kiến xá da sa hạ hạ na lã ti ưng hạ mẫu khư da sa hạ (nīlakaṇṭha svāhā – viên mãn thay! Tướng thanh cảnh [vị bồ tát có cái cổ xanh từ bi – pháp âm từ bi]; bi nguyện giải khổ ban vui) 100. Phạ ra hạ mẫu khư da sa hạ (mahāvarāha svāhā – viên mãn thay! Sự hóa thân thành hình thế đoàn quân dũng mãnh; ) 101. Mang hạ na lã tỉ ưng hạ mẫu khư da sa hạ (mahādarasiṃha mukhāya svāhā – viên mãn thay! Tướng đại mãnh sư; thành tựu tướng sư tử dũng mãnh) 102. Tất đà vĩ nhĩ dạ đạt lã da sa hạ (siddhaviddhya dharāya svāhā – dứt khoát cho sự chứng đắc minh chú) 103. Phả na mang hạ tát đá da sa hạ (Padmahastāya svāhā – thành tựu liên hoa thủ; thành tựu bàn tay hoa sen) 104. Ngật rị sử noa tát bà ngật rị dạ dã nhi dụ phả vĩ đá da sa hạ (ha kṣṇsarpakṛtvajyopavitāya svāhā – vui thay thành tựu sự liên hệ khéo léo [như dược tính chiết xuất từ] loài rắn đen; vui thay thành tựu mối liên hệ khéo [như dược học chế xuất từ nộc độc của] loài rắn đen) 105. Mang hạ lã củ tra đà lã da sa hạ (mahāmuktā dhārāya svāhā – viên mãn thay! Sự trì thủ ngọc như ý [sự thấu đạt tinh hoa Phật pháp]) 106. Nghiên yết ra dữu đà da sa hạ (Cakrayudhāya svāhā – viên mãn thay! Quyền trượng thúc đẩy xa luân) 107. Thắng khư nhiếp na nhi mạo đà nẵng da sa hạ (saṅkhaśabdanibuddhanāya svāhā – viên mãn thay ! Sự thổi loa pháp [cổ vũ] khai đại giác) 108. Ma mang tư kiến đà vị sa tư thế đa ngật rị sử noa nhi nẵng da sa hạ (vamaskandhaviṣasthitakṣṇajināya svāhā – thành tựu bậc chiến thắng bóng tối do uẩn xứ gây nên) 109. Nhi dạ khư ra triết mang nhi phạ sa nẵng da sa hạ lộ kế thấp phược ra da sa hạ (vyāghracarmānivasanāya svāhālokiteśvarāya svāhā – thành tựu đại lực như dũng sĩ khoác áo da beo, thành tựu quán pháp) 110. Tát ma tất đệ thấp phược la da sa hạ (sarvasiddheśvarāya svāhā – viên mãn thay! Nhất thiết thành tựu tự tại quán) 111. Nẵng mộ bà nga phạ đế a rị dạ phạ lô chi đế thấp phược ra da mạo địa tát đát phạ da mang hạ ca lô nãnh ca da (namo bhagavate āryāvalokiteśvarāya mahāsattvāya mahākaruṇikāya – đãnh lễ thánh quán tự tại thế tôn, vị chúng sinh vĩ đại với lòng từ bi bao la) 112. Tất điện đô danh mãn đa la bạt na da sa hạ (siddhyantu siddhiyantumantrapadāya svāhā – viên mãn thay! Sự thành tựu mệnh cú mật ngôn). Được dịch tạm như sau: Đãnh lễ Tam bảo, đãnh lễ bậc thánh quán tự tại [người làm chủ cái thấy của mình], vị đại hữu tình có trí tuệ và lòng từ mẫn bao la. Vị mà mọi trói buộc đã bị chặt dứt và làm cho biển khổ khô cạn. Vị mà mọi phiền não bức bách, mọi sự sợ hãi được cứu độ và đã được tịnh hóa toàn diện. Tôi đãnh lễ như vậy, bậc thánh quán tự tại mà đó là nơi tôi an trú. Đây gọi là tính tinh hoa hiền thiện thuận giáo tâm. Do đó tôi tuyên bố. Mọi lợi lạc đắc thành, siêu việt tất cả hữu thể, vì đó là đạo trình đưa đến thanh tịnh. Oṃ! Trong thế gian mà đi ra ngoài thế gian. Oṃ! Trong thế gian mà siêu xuất thế gian. Vui thay! Đại bồ đề. Vui thay! Đại bồ tát. Vui thay tinh tấn bồ tát. Vui thay! Bậc thánh siêu thế gian. Vui thay! Đấng đại bi, luôn trì niệm tâm lành. Trong sự nghiệp lại làm nên nghiệp lớn. Nương vào sự thành tựu minh chú mà tôi được đưa vào thệ nguyện, siêu ma chướng thành tựu du-già. Trong phép du già thành bậc hành không, bậc đại hành không. Chinh phục, chinh phục, đại chinh phục ác ma. Thánh quán tự tại có diệu tướng của bậc thắng tử, với tướng nhục kế như mão lưu ly buông thành tràng hoa; [đó là] bậc trì giữ đại minh chú, thệ nguyện, thệ nguyên, đại thệ nguyện; hàng phục, hàng phục, đại hàng phục ác ma; hành giả, hành giả, đại hành giả. Vui thay! Bậc có bàn tay sen mà tính tự tại của ngài [tạo nên] sự liên hệ nhuần nhuyển [như dược tính trích từ loài rắn hổ mang.] Viên mãn thay! Tướng của đại binh đoàn [trư diện - tướng của loài heo rừng độc chiếc = loài heo rừng có một nanh] vượt tam độc một cách tự tại. Vui thay! Đấng thanh cảnh, con đường chuyển tải thệ nguyện, tạo nên hiệu ứng vĩ đại. Tiêu diệt, tiêu diệt độc tố thế gian phát sinh: tam độc tham, sân và si. Tốc thắng, đại tốc thắng chúng ma, người tạo ra tương lai trong bông sen vĩ đại. Kiên cố, vô hoại diệt. Kiết tường đại kiết tường. Tuôn chảy, tuôn chảy cam lộ. [Hởi] thần chinh phục Muru, muru, kẻ được giác ngộ, giác ngộ. Giác ngộ, giác ngộ. Trong sự bao dung, đấng thanh cảnh [hải đảo hương sơn]. Vui thay! Tướng sư tử trụ. Nụ cười, nụ cười đại khai giải thoát. Ồ! Vui thay đấng thành tựu vô nhiễm. Trong ngôn âm thành tựu minh tuệ, từ ức niệm chân thật quán chiếu chủng tử viên đức mà Thế Tự Tại Vương như lai khai thị cho tôi, cái nhìn từ ái, thành tựu tâm hoan duyệt. Viên mãn thành tựu, viên mãn đại thành tựu. Viên mãn pháp du-già tự tại. Viên mãn pháp âm từ bi [thanh cảnh tướng]. Viên mãn trư diện [ loài heo rừng độc chiếc]. Viên mãn tướng đại mãnh sư. Thành tựu trì minh chú. Thấu đạt viên mãn tinh hoa pháp Phật [như viên ngọc quý được sở hữu]. Thành tựu quán sát, thành tựu đại lực như dũng sĩ khoác áo da beo. Viên mãn thay! Phương tiện quyền trượng và xa luân. Viên mãn thay! Loa pháp cổ vũ đại giác. Viên mãn thay! Bậc chiến thắng bóng tối do uẩn xứ tạo nên. Viên mãn thay! Nhất thiết thành tựu tự tại quán. Đãnh lễ thánh quán tự tại thế tôn, vị đại hữu tình có lòng bi vô hạn lượng. Viên mãn thay! sự thành tựu mệnh cú mật ngôn. hay BẢN TIẾNG PHẠN CỦA HT BẤT KHÔNG Nam mô hạt la đát na đá la dạ gia (namo ratna trayāya – đãnh lễ Tam bảo) 2. Nam mô a lị gia (namaḥ ārya – đãnh lễ bậc thánh) 3. Bà lô yết đế thước bát la gia (āvalokiteśvarāya – quán tự tại) 4. Bồ đề tát đỏa bà gia (boddhisattvāya – bồ tát; chúng sinh có trí tuệ hay giác tính) 5. Ma ha tát đỏa bà gia (mahāsattvāya – chúng sinh vĩ đại) 6. Ma ha ca rô ni ca gia (mahā kāruṇikāya – đại bi; lòng từ mẫn vĩ đại) 7. Án (oṃ - quy mệnh) 8. Tát bà la phạt duệ (sarvabhayeṣu – với tất cả sự tôn kính; sarva rabhaye – dũng mãnh bất giải đãi) 9. Số đát na đát tỏa (trāṇakarāya – cứu độ và giáo dục theo con đường chân chính; śuddhānādasya – chánh giáo) 10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị gia (tasmai namas kṛtvā imaṃārya – kính lễ bậc thánh như thế của tôi) 11. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà (āvalokiteśvarāya [laṃtabha] – hải đảo hương sơn quán tự tại) 12. Nam mô na la cẩn trì (namo nilakaṇṭha – đãnh lễ đấng thanh cảnh) 13. Hê lị ma ha bàn đa sa mế (hṛ dayaṃ āvartajisy āmi – phóng đại quang minh) 14. Tát bà a tha đậu du bằng (sarvātha s ādhanaṃ śubhaṃ - hoàn toàn vô tham nghiêm tịnh) 15. A thệ dựng (ajeyaṃ - vô tỷ; không thể so sánh) 16. Tát bà tát đa na ma bà già (sarva bhūtānaṃ - thực tướng tuyệt đối) 17. Ma phạt đạt đậu (bhavamārgaviśuddhakaṃ - mở ra con đường dẫn đến thanh tịnh) 18. Tát điệt tha (tadhyathā – do vậy, đó được gọi là) Oṃ à bà lô hê (āloke ālokemati – quy mệnh quán tự tại) 19. Lô ca đế ca la đế (lokati krānte – không hành quán) 20. (hehe) hare (tâm sinh hoa sen) 21. Mahā boddhisattva (đại bồ tát) 22. Tát bà tát bà (sarva sarva – tất cả tất cả) 23. Ma la mala (smara smara – ly cấu) 24. ma hê ma hê lị đà dựng (masī hṛdayaṃ - khảo sát tâm tính) 25. Câu lô câu lô yết mông (kuru kuru karmaṃ- thực hiện đại nghiệp). 26. Độ lô độ lô phạt xà gia đế ([sādhaya sādhaya] dhuru dhuru vijayante – bậc thánh cứu độ ta) 27. Ma ha phạt xà gia đế (mah āvijayante – bậc đại thánh tôn) 28. Đà la đà la (dhāra dhāra – gia trì gia trì; năng trì) 29. Địa lị ni (dharendra [dhiriṇi] – phóng áng sáng [bất luận nữ nam]) 30. Thất phật la gia (Iśvara – tự tại) 31. Giá la giá la (cala cala – hành động; hoạt động) 32. Ma ma phạt ma la (mana vimala – ly cấu là pháp tôi thọ trì). 33. Mục đế lệ (mukte – giải thoát) 34. Y hê di hê (ehy ehi – giáo ngữ; thuận giáo tâm) 35. Thất na thất na (sina sina – người chiến sĩ) 36. A la sâm phạt la xá lợi (araṣim bhala śari – Quán không đối với bản năng) 37. Phạt sa phạt sâm (dveṣa viṣaṃ - hoan hỷ) 38. Phạt la xá gia (vināśaya – Phật kim cang xử) 39. Hô lô hô lô ma la (hulu hulu mala [mohacalaviṣaṃ vināśaya] – tác pháp vô cấu ) 40. Hô lô hô lô hê rị (hulu hulu mala [hulu hulu hare] – tác pháp tùy tâm) 41. Sala sala (sara sara – người kiên định) 42. Tất lị tất lị (siri siri – dũng mãnh) 43. Tô rô tô rô (sru sru – cam lộ) 44. Bồ đề dạ bồ đề dạ (buddhiya buddhiya – khiến tỉnh thức, giác đạo) 45. Bồ đà dạ bồ đà dạ (bodhya bodhya – người tỉnh thức, giác giả) 46. Di đế lị dạ (maitriya - đại bi tâm) 47. Na la cẩn trì (nilakaṇṭha – thanh cảnh; căn âm thanh tịnh – đấng Hiền Thiện) 48. Tha lị sắt ni na ([kamasya] dhaṣaṇāṃ - cứng rắn và sắc bén; kiên lợi) 49. Ba dạ ma na (prahrādaya mānaḥ - danh văn; [abhaya maṇa – tâm vô úy]) 50. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 51. Tất đà dạ (siddhāya – thành tựu; nhận thực được cái như thị) 52. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 53. Ma ha tất đà dạ (mahā siddhāya – đại thành tựu) 54. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 55. Tất đà du nghệ (siddhayoga – thành tựu pháp du-già) 56. Thất bàn ra dạ (iśvara – tự tại) 57. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 58. Na la cẩn trì (nilakaṇṭha – thanh cảnh; căn âm thanh tịnh – đấng Hiền Thiện) 59. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 60. Pravarāha mukhāya (tướng heo rừng độc chiếc) 61. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 62. Tất la tăng a mục khư da (siṃhamukhāya – sư tử tướng) 63. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 64. Sa bà ma ha a tất đà dạ (sarva mahāmuktāya – mọi châu báu vĩ đại) 65. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 66. Giả cát la a tất đà dạ (cakrā yudhāya – chinh phục ma oán bằng quyền trượng và xa luân) 67. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 68. Ba đà ma yết tất đà dạ (padmahastāya – tay sen; hồng liên hoa) 69. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 70. Na la cẩn trì bàn già la da (nilakaṇṭha śaṇkha rāja – loa pháp vương cổ vũ giác ngộ bằng thanh cảnh [cần cổ màu xanh: ngôn căn thanh tịnh]) 71. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 72. Nam mô hạt la đát na đá la dạ gia (namo ratna trayāya – đãnh lễ Tam bảo) 73. Nam mô a lị gia (namaḥ ārya – đãnh lễ bậc thánh) 74. Bà lô yết đế thước bàn la gia (āvalokiteśvarāya – quán tự tại) 75. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 76. Án tất điện đô (oṃ sidhyantu – khiến ta thành tựu) 77. Mạn đa la (mantra – mật chú) 78. Bạt đà dạ (cú; mệnh cú) 79. Sa bà ha (svāhā – thành tựu). Bản Đại Bi chú âm dịch của Bất không, về mặt văn nghĩa không khác bao nhiêu với bản âm dịch của Kim cang trí. Cho dù là chênh lệch tới 33 câu. VÌ THẾ mong bà con ta tình cờ gặp bài chú Đại Bi của ht Thích trí Quảng sẽ thấy cái hay và hiểu được nghĩa thật của bài chú.dq ( phần kinh Dược Sư xin tiếp sau, cám ơn đã theo dỏi) |
|||
|
Đang xem chủ đề này: 2 Khách