PPS NHẠC> NHẠC MÙA THU & NHẠC KHÁC
|
13-11-2017, 05:34 PM
(Được chỉnh sửa: 14-11-2017 05:49 AM bởi dieuquang.)
Bài viết: #41
|
|||
|
|||
RE: PPS nhạc thu & NHẠC KHÁC...
MÙA THU LẠI TỚI, CHỦ ĐỀ NÀY NHƯ THẾ LÀ HƠN NĂM.DQ HÔM NAY CHỈ GỬI LÊN ÍT CÂU CHUYỆN VỀ THƠ NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN THU.( trong đoạn in nghiêng là trích dẫn từ các bài thơ & nhạc trong ngoặc đơn do dq tìm hiểu nên có gì sơ sót hay mượn bài các tác giả liên quan xin cám ơn và thứ lỗi)
Trời đã vào Thu với màu ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi. Nhắc đến mùa Thu, có lẽ ai cũng nhớ đến bài tập đọc “Tôi đi học” của Thanh Tịnh trong tập truyện “ Quê Mẹ”. Bài đoản văn bất hủ đã làm bao học trò ngày xưa ấy rung động: Hằng năm cứ vào cuối Thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường nầy tôi đã quen đi lại nhiều lần nhưng lần nầy tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học. Trong bốn mùa của thiên nhiên có lẽ mùa Thu làm cho con người bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận , đã có biết bao nhiêu vần thơ điệu nhạc nói về mùa Thu. Mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là mùa của những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu không khí mát mẻ trong lành, rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi cùng nhau nhìn lá vàng rơi, rơi cuốn theo gió tận cuối chân trời. Hình ảnh gắn liền với mùa Thu nhất có lẽ là chiếc lá vàng . Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng chiều thu khi lá vàng lác đác rơi qua mái đầu và rớt xuống đất, mới cảm thấy được cái đẹp tuyệt vời của mùa thu, mới rung cảm theo nhịp của lá vàng đang rơi, rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi đến tận chân trời xa thăm thẳm. Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng bay, mùa của lá vàng rơi, mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẻo đường. Từ đó ta có những vần thơ tuyệt vời cho lá Thu như 4 câu thơ dưới đây trong bài “ Cây bàng cuối Thu” của nhà thơ Nguyễn Bính Thu sang trên những cành bàng Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi Hôm qua đã rụng một rồi Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn Nhắc đến những bài thơ hay về Thu phải nhớ đến truyện Kiều của cụ Nguyễn Du với những đoạn tả cảnh Thu thật nhẹ nhàng da diết như đoạn Kiều từ giã gia đình để dấn thân giang hồ: Vi lô san sát hơi may Một trời Thu để riêng ai một người hoặc: Rừng Thu từng biếc sen hồng Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn Riêng đoạn tả cảnh chia ly giữa Thúy Kiều và Thúc Sinh thì thật trác tuyệt: Người lên ngựa kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san hay: Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng Nhà thơ Tản Đà cũng đã viết về lá vàng : Trận gió thu phong rụng lá vàng Lá rơi hàng xóm lá bay sang ( Việt Nam ta có cây phong hay không? Hoặc giả cây phong chỉ có ở một vùng nào đó mà thi sĩ biết được >Có cả chục loại Phong khác nhau, trong đó có loại bản xứ ở Việt Nam và nam Trung Quốc. Những loại Phong bản địa này thì ngay người Việt Nam cũng ít biết,chỉ có nhà nghiên cứu về Phong, đi phược mới biết thôi. Riêng mấy loại Phong xứ lạnh ở Mỹ, Canada, thì chỉ thích hợp những nơi nào có sương muối, băng tuyết. Rừng lá phong tự nhiên như ở khu vực hồ Tuyền Lâm hoặc là Vườn quốc gia Bidoup (huyện Lạc Dương.Kế là Đồng Cao, Bắc Giang, Rừng nguyên sinh Chế Tạo, Mù Cang Chải, Yên Bái, Đỉnh Pha Luông, Mộc Châu, Sơn La, Đỉnh Fansipan, Lào Cai) Thu về đem nỗi buồn man mác cho lòng người , gió Thu se lạnh gợi bao niềm nhớ thương như tâm tình của Hồ Dzếnh trong “ Màu Thu năm ngoái: Trời không nắng cũng không mưa Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung Chiều buồn như mối sầu chung Lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa Riêng Lưu Trọng Lư đã ru hồn người trôi nổi phiêu bồng trong rừng Thu ngập lá với bài thơ nổi tiếng “ Tiếng Thu”: Em không nghe mùa Thu Dưới trăng mờ thổn thức Em không nghe rừng Thu Lá Thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô Mùa Thu cũng là mùa tan tác chia ly như tiếng thổn thức của nữ sĩ T.T.KH một thời gây sôi nổi dư luận : Tôi sợ chiều Thu phớt nắng mờ Chiều Thu hoa đỏ rụng chiều Thu Gió về lạnh lẽo chân mây vắng Người ấy bên sông đứng ngóng đò ( Hai sắc hoa ti- gôn) Cũng trong nỗi hoài cảm sầu ly biệt, Nguyễn Gia Linh đã dệt nên những vần thơ lục bát buồn man mác: Ai hay ai biết đặng nào Người đi từ độ Thu vào lòng tôi Hoa lòng chưa nở làn môi Đã tan theo khói đã rơi vào sầu (Tâm tình mùa ly biệt) Trong nổi bâng khuâng nhớ nhà dưới trời Thu hiu quạnh, thi sĩ Đinh Hùng đã gởi tâm tình qua bài thơ “ Bài hát mùa Thu” réo rắt như một nhạc khúc trữ tình lãng mạn: Hôm nay có phải là Thu Mấy năm xưa đã phiêu du trở về Cảm vì em bước chân đi Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn Ai về xa mái cô thôn Một mình trông khói hoàng hôn nhớ nhà Thi sĩ Thế Lữ cũng nhiều lần cảm khái với Thu: Rồi có khi nào ngắm bóng mây Chiều Thu đưa lạnh gió heo may Dừng chân trên bến sông xa vắng Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây (Giây phút trạnh lòng) Cũng ngay trong mùa Thu , nhà thơ Quách Tấn đã ghi lại nỗi cảm xúc khi đọc bài “ Phong kiều dạ bạc “ của Trương Kế: Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng Bồn chồn thương kẻ nương song bạc Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng ( Đêm Thu nghe quạ kêu) Mùa Thu tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều tượng trưng cho những nỗi buồn bàng bạc, những cuộc chia ly ngậm ngùi. Ta hãy ttưởng thức một đoạn thơ của Cung Trầm Tưởng viết về “ Mùa Thu Paris”: Mùa Thu Paris Trời buốt ra đi Hẹn em quán nhỏ Rưng rưng rượu đỗ tràn ly Mùa Thu đêm mưa Phố cũ hè xưa Công trường lá đỗ Ngóng em kiên khổ phút giờ Hình như trời sinh ra mùa Thu để cho vạn vật tiêu điều ủ rũ, cho thế nhân lạc lõng u hoài . Đã thế, qua lăng kính đau thương chán nãn, Hàn mặc Tử thấy Trời Thu càng não nề chua xót hơn: Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ Với buồn phơn phớt vắng trơ vơ Cây gì mảnh khảnh rung cầm cập Điềm báo Thu vàng gầy xác xơ (Cuối Thu) Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối Gió thu lọt cửa cọ mài chăn hay là: Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe Thu về trong đôi mắt người thương lãng đãng xa vời và một thoáng buồn trong không gian nhạt nhòa khói sương đã để lại cho Nguyên Trần khoảng trống vắng mênh mông: Nghe chớm Thu về trong mắt em Nghiêng nghiêng liễu rũ tóc buông mềm Thì thầm gió nhẹ lay hàng giậu Từng lá Thu buồn rơi thoáng êm (Hoài Thu) Mùa Thu quả thật là buồn, buồn trong lòng người cho đến vạn vật cỏ cây, tiêu điều xác xơ từ thành thị đến làng quê và hắt hiu tan tác đến cả sơn khê núi rừng . Bỗng dưng buồn bã không gian Mây bay lũng thấp giăng màn âm u Nai cao gót lẫn sương mù Xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về Sắc trời trôi nhạt dưới khe Chim đi lá rụng, cành nghe lạnh lùng Sầu Thu lên vút song song Vớùi cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu Non xanh ngây cả buổi chiều Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia. Huy Cận Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Đây mùa thu tới mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng Xuân Diệu HayXuân Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất ngôn đầy lưu luyến trữ tình: Nõn nà sương ngọc quanh thềm dậu Nắng nhỏ bang khuâng chiều lỡ thì Một nhà thơ nổi tiếng như sóng cồn một thời vang bóng đã ca ngợi sương thu qua bài thơ “Sương rơi”. Đó là thi sĩ Nguyễn Vỹ với bài thơ hai chữ đã để lại cho đời một tác phẩm bất hủ về sương thu: Sương rơi Nặng trĩu Trên cành Dương liễu… Nhưng hơi Gió bấc Lạnh lùng Hiu hắt Thấm vào Em ơi, Trong lòng Hạt sương Thành một Vết thương!.. Rồi hạt Sương trong Tan tác Trong lòng Tả tơi Em ơi! Từng giọt Thánh thót, Từng giọt Điêu tàn Trên nấm Mồ hoang!.. Rơi sương Cành dương… Liễu ngã Gió mưa Tơi tả Từng giọt, Thánh thót.. Từng giọt, Tơi bời, Mưa rơi, Gió rơi, Lá rơi, Em ơi!... Nếu mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có nắng thu nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay gắt rực lửa như mùa hạ trái lại rất mát dịu trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng hồng. Đi dưới nắng thu người ta thấy tâm hồn rất thoải mái lâng lâng, nhất là những lúc trời chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng khắp phố phường. Nhiều cặp tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng thức cái vẻ đẹp của mùa thu, nhặt những lá vàng rơi rồi nhìn những hàng cây khẳng khiu chỉ còn những cành trụi lá dọc hai bên đại lộ lúc chiều tà. Chao ôi! thu đã tới rồi sao? Thu trước vừa qua mới độ nào Mới độ nào đây hoa rạn vỡ Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao. Chế lan Viên Không hiểu vì cảnh sắc mùa Thu tự nó buồn hay mà bài thơ mùa Thu nào cũng buồn tê tái. Chỉ có một thi nhân duy nhất với ba bài thơ diễn tả mùa Thu chẳng những không bi quan yếm thế mà còn vui vẻ yêu đời , mang triết lý sống rất là relax. Đó là cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến với ba bài thơ : Thu Điếu, Thu Ẩm và Thu Vịnh mà ta đã từng phải học thuộc lòng ở bậc Trung học. Thu Điếu Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng, Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Thu Ẩm Năm gian nhà nhỏ thấp le te, Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không viền cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy Độ năm ba chén đã say nhè. Thu Vịnh Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu. Nước biếc trông chừng như khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào! Thêm nữa,bài thơ nổi tiếng “Chansons D’automne” của thi sĩ lừng danh Pháp quốc Paul Verlaine gây bồi hồi và xúc động. Nhà thơ đa tình này đã rung cảm hồn mình thành những dòng thơ bất hủ sau đây để nức nở về tình thu bên bờ sông Seine tuyệt đẹp năm nào: Les sanglots longs Des violons De l’automne Blessent mon coeur D’une langueur monotone Tout suffocant Et blême, quand Sonne l’heures Je me souviens Des jours anciens Et je pleure Et je m’en vais Au vent mauvais Qui m’emporte Decà delà Pareil à la Feuille morte Tiếng đàn ai đó lê thê Vĩ cầm réo rắt ê chề lòng đau Bơ vơ chuông đổ đồng hồ Lòng như héo hắt thu tàn năm xưa Bao kỷ niệm, theo gió đưa Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót xa Bao năm lữ thứ xa nhà Giang hồ phiêu bạt lá vàng tả tơi…” Ngồi ngắm mưa thu,chợt nghe tiếng hát Ánh Tuyết nỉ non bản nhạc “Lá đỗ muôn chiều” của Đoàn Chuẩn mà thấy lòng rung động bồi hồi. Tiếng hát mơ hồ huyền hoặc như đưa hồn mình chơi vơi trong khung trời xưa tưởng đã nhạt nhòa: Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về Ngày mai, người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa tình duyên đành dứt Có những đêm về sáng đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi đã vội chi men rượu nhấp đôi môi mà phung phí đời em không tiếc nhớ Lá đổ muôn chiều ôi lá úa, phải chăng là nước mắt người đi Em ơi đừng dối lòng dù sao chăng nữa không nhớ đến tình đôi ta Thôi thế từ đây anh cố đành quên rằng có người Cầm bằng như không biết mà thôi Lá thu còn lại đôi ba cánh đành lòng cho nước cuốn hoa trôi Thôi thế từ nay như lá vàng bay tình lỡ rồi Thuyền rơi xa bến vắng người ơi Hướng dương tàn tạ trong đêm tối Còn nhớ phương nào hoa đã rơi. Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về Tình anh một con thuyền bé chìm sâu đại dương một đêm nổi sóng Có những đêm về sáng đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi Tiếc mà chi dang dở phút phân ly Thuyền phiêu lãng từ nay không bến đổ Lá đổ muôn chiều ôi lá úa phải chăng là những cánh đời em đêm đêm lìa xuống trần tình vương hoen úa ôi những cánh đời mong manh. Than tiếc mà chi chiếc lá vàng bay về cuối trời làm lòng anh nhớ mãi người ơi. Nhớ nhau từ làn môi đôi mắt. đành tìm trong nét bút xa xôi. Nhưng mỗi mùa thu chiếc lá vàng bay về cuối trời. Thuyền tình không bến đỗ người ơi. Nhớ nhau đành tìm trong tiếng hát. đời vắng em rồi vui với ai. Người ta cần buồn để hòa mình với sự tuần hoàn của thiên nhiên , cần buồn để quý trọng từng khoảnh khắc vui tươi … cần buồn để thương, cần buồn để nhớ. Mùa thu đã sẵn trong tâm tưởng con người, như kỷ niệm vĩnh viễn còn ở lại, như màu nắng có bao giờ phai. Nhắc đến thu, chợt nhớ đến sắc tơ vàng vương vương, và lá vàng rơi khi tình thu vừa khơi, nghe chừng như đây màu tê tái. Nhưng đâu chỉ có thế … Thu là màu tím chiếc áo ôm tim lẻ loi khóc anh chiều tiễn đưa, màu tím sầu thương của những chuỗi ngày vắng nhau tháng năm còn lướt mau biết bao giờ thấy nhau. Thu là màu hoa thạch thảo chết lịm mong chờ bởi trên cõi đời mộng trùng lai không dễ. Thu là sắc lông vũ hoàng hạc bay bay mãi bỏ trời mơ, là không gian thăm thẳm diệu vợi của đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió, là ánh sáng huyền ảo lung linh của sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ. Thu là màu xanh: xanh nuột nà trinh nguyên tà áo người mơ không đến bao giờ, xanh lơi lả lá thư nhuộm tình ân ái, xanh thơ ngây gót hài chênh vênh người em gái một sớm mai giữa chân trời lồng lộng, xanh óng gió bay cùng mây ngàn, xanh ngát trăng non gửi về với thu trần gian. Hòa trong nỗi sầu vào thu, suối mơ cũng buồn vì suối lưu luyến tình nhân thế. Nỗi buồn tưởng không thể nào trong sáng hơn thế, tình yêu tưởng không thể nào trong sáng hơn thế, chẳng bợn chút dục vọng, sầu thương, mà dường ru con tim nguôi ngoa lắng dịu. Suối ơi ! Nghe rừng heo hút. Dòng êm đưa lá khô già trút Còn như lưu hương yêu dấu Với suối xưa trôi nơi đâu... Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối . Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát. Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi . Tơ đàn chùng theo với tháng năm, Rừng còn nhớ tới người . Trong chiều nào giữa chốn đây, Hồn cầm lắng tiếng đời. (Suối mơ) - Văn Cao Mùa thu của Văn Cao giữ trọn cái mơ màng huyền diệu đó. Và cái Thu Cô Liêu là cái Thu buồn bã của một cái ngày xa vắng và cái nhớ đi tìm người yêu trong cái Thu thôi. Vàng hoen đáy nước soi rõ đường đi. Một mùa Thi, một mùa Thi Lá rơi, rơi rụng buồn chi lá vàng. Sương ấp lạnh non hương cứng lá Đã từng nghe gió biết thu sang (Thu cô liêu )Văn Cao Mùa thu chết theo lá vàng, chết trong chiếc áo đan trên tay thiếu phụ lòng buồn vương vấn. Chàng bận lòng nhớ xa khơi, chàng còn mải theo lời gió nước, còn em đan áo mà dệt trọn nỗi nhớ thương. Người ơi còn biết em nhớ mong Tình xưa còn đó xa xôi lòng Nhờ bóng chim uyên nhờ gió đưa duyên Chim với gió bay về chàng quên hết lời thề (Buồn tàn thu)Văn Cao Đặng Thế Phong vẽ từng bức tranh thu bằng ca từ và nhạc điệu … không có dáng ngọc mà chỉ có trăng lan dịu dàng nhưng thấm đẫm nỗi buồn, chỉ có hoa vương sầu thu muôn đời chất ngất, chỉ có lá cây đọng lại lệ đêm trường, và kẻ cô đơn vạn kiếp thao thức nhớ thương ai. Làn gió lướt tới cuốn đưa hồn ta phiêu diêu theo mây trắng trôi lơ lửng Ngàn muôn tiếng réo rắt côn trùng như than như van mơ hồ theo gió lan Trăng xuống dần Cỏ cây thêm âm thầm Đông buồn trong ánh sao Như chiếu nhìn mắt ta bao lạnh lùng Lay hồn ta rồi thu (Đêm thu) - Đặng Thế Phong Hồn người dường cũng đã tan theo trăng rồi. Mưa thu thánh thót rơi, u buồn lắng ngập bầu trời, có ai khóc đời người hữu hạn, có ai than kiếp mệnh bạc tài hoa. Làm sao níu lại gió, giữ lại mưa để cõi lòng đừng lâm ly khi hồn thu tới? Vợ chồng Ngâu còn khóc mãi vì thu … cho một đêm hội ngộ thỏa mộng tình si, và dương thế bao la buồn sẽ đời đời khóc cho nhất phiến tài tình thiên cổ lụy. Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về Ai nức nở thương đời chân buông mau (Giọt mưa thu) - Đặng Thế Phong Sương lam đã mờ chân mây mà thuyền không bến đỗ. Thuyền ơi, còn lờ lững trôi xuôi nặng nỗi đa mang. Giữa dòng ai biết nông sâu, vơ vẩn một hồn cựu mộng, mối sầu day dứt sao chặt cho đứt, khối sầu nặng trĩu sao đập cho tan … Hơi thu theo heo mây, thông ngàn vi vu lời gió vang từ miền xa lăng lắc, thuyền nhớ bến mơ trong giấc mộng phai tàn. Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng. Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong (Con thuyền không bến) - Đặng Thế Phong Khi mùa hè với cái nắng gay gắt qua đi, mùa thu đến đem theo những cơn gió heo may dịu dàng, những con đường tràn ngập lá vàng rơi và cả khúc yêu thương của những trái tim “vương màu xanh mới”. Lời ca bay bổng, giai điệu ngọt ngào mang âm hưởng những năm 1970 mỗi khi vang lên như khẽ nhắc nhở người nghe rằng mùa thu đã sang rồi. Tình cảm dành cho mùa thu được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên thể hiện vừa lãng mạn, lại vừa kín đáo nhưng vẫn có sự nồng nàn trong các tình khúc của mình. Cô gái trong bài hát đã nhờ vẻ đẹp “má hồng”, “môi em thơm nồng” của mùa thu để bày tỏ tình yêu của mình một cách ý nhị. Khi thiên nhiên, đất trời thay áo mới, con người cũng khoác lên mình một tâm hồn mới, đầy ắp yêu thương và hy vọng. Anh có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ Anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương Và anh có nghe khi mùa thu tới Mang ái ân, mang tình yêu tới Anh có nghe hồn thu nói mình yêu nhau nhé. (Mùa thu cho em) Ngô thụy Miên Ngoài vẻ đẹp quyến rũ làm xao xuyến lòng người, mùa thu với những lời ru, ánh trăng thề, những con đường hiu quạnh còn đem lại cảm giác buồn man mác. Đó là sự hoài niệm về những gì đã qua, về mối tình cũ đã chìm trong quá khứ. Mùa thu đến và đi quá đột ngột, cũng giống như chuyện tình dang dở của cô gái trong ca khúc Không còn mùa thu, để lại bao nuối tiếc và thương nhớ. Những ký ức về cuộc tình cũ cứ hiện về trong tâm trí của cô gái ấy mỗi độ thu sang. Nhắc tới mùa thu, hầu như ai cũng hình dung ra sắc vàng. Đó là màu của những chiếc lá rơi bên thềm, của ánh trăng khuya và cũng là màu vàng tê tái của những ký ức tươi đẹp đã qua, chìm khuất tận nơi chân trời. “... Không còn mùa thu, trăng rơi bên thềm Không còn lời ru, mơ trên môi mềm Em thơ, như mùa xuân đầu, nối dài đêm sâu Anh làm mùa thu, cho em mơ màng...” (Không còn mùa thu) Việt Anh Nhìn những mùa thu đi và Nắng thủy tinh đều là hai nhạc phẩm bất tử về mùa thu mà cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã để lại cho kho tàng âm nhạc VN. Đều lấy hình ảnh là một buổi chiều thu, nhưng nếu như Nắng thủy tinh là một “chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm” thì buổi chiều trong Nhìn những mùa thu đi lại “đơn côi bàn tay quên lối, đưa em về nắng vương nhè nhẹ”. Trong cuộc đời của mỗi con người, ai rồi cũng sẽ phải đón nhận những mùa thu đi qua và “nghe tên mình vào quên lãng”. Mùa thu đến và đi để lại bao cảm xúc bâng khuâng, ngậm ngùi. Những hoài cảm sâu sắc của biết bao người nghe đã, đang và sẽ vẫn trào dâng mỗi khi những giai điệu êm đềm ấy được ngân vang. Mùa thu cũng là lúc để chúng ta hoài niệm về quá khứ, để tâm hồn mình “buồn dâng mênh mang” và lắng đọng theo từng nốt nhạc xưa cũ. Nhìn những mùa thu đi Em nghe sầu lên trong nắng Và lá rụng ngoài song Nghe tên mình vào quên lãng Nghe tháng ngày chết trong thu vàng…” “… Chiều đã đi vào vườn mắt em Mùa thu qua tay đã bao lần Ngàn cây thắp nến lên hai hàng Màu nắng bây giờ trong mắt em… (Nhìn những mùa thu đi/ Nắng thủy tinh) Trịnh Công Sơn |
|||
13-11-2017, 07:36 PM
Bài viết: #42
|
|||
|
|||
RE: PPS nhạc thu & NHẠC KHÁC... | |||
14-11-2017, 05:58 AM
Bài viết: #43
|
|||
|
|||
RE: PPS nhạc thu & NHẠC KHÁC...
Mời xem pps * LÁ ĐỖ MUÔN CHIỀU*
DQ- LÁ ĐỔ MUÔN CHIỀU.ppsx (Kích cỡ: 7.19 MB / Tải về: 375) Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (15 /6/ 1924 – 15 / 11/ 2001) là một nghệ sĩ biểu diễn lục huyền cầm Hạ Uy Di, song được biết đến nhiều hơn cả như một nhạc sĩ Việt Nam với số lượng sáng tác ít ỏi nhưng đều trở thành những giai điệu bất tử được thuộc nằm lòng của nhiều thế hệ. Sinh ra trong một gia đình tư sản nổi tiếng ở Hải Phòng, ông là con trai thứ 2 của nhà tư sản Đoàn Đức Ban (Vạn Vân) – chủ hãng nước mắm Vạn Vân nổi tiếng và lớn nhất trên toàn cõi Đông Dương trước 1945). Sinh ngày 15/6/1924, tại Hải Phòng, mảnh đất có nhiều nhân vật đóng góp lớn cho nền âm nhạc Việt Nam thời điểm khởi đầu: Lê Thương, Văn Cao, Hoàng Quý, Hoàng Phú (Tô Vũ)… Trong đó, chính nhóm Đồng Vọng mà Hoàng Quý chủ xướng đã tạo nên không khí sáng tác cho dòng nhạc lãng mạn thời gian này. Đoàn Chuẩn lại trưởng thành ở Hà Nội, không những thế, lại còn trong một gia đình tư sản cỡ lớn: Hãng nước mắm Vạn Vân. Hà Nội đầu thế kỷ từng có câu: “Cốm Vòng, cà Báng, húng Láng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”, hãng này nổi tiếng khắp Đông Dương. Ông lớn lên ở Hà Nội và là nghệ sĩ chơi đàn Guitar Hawaii. Ông sáng tác ca khúc đầu tiên là “Ánh Trăng Mùa Thu” vào năm 1947 tại làng Đống Năm, Đông Hưng, Thái Bình với đề từ ghi “kỷ niệm những ngày ở Khuốc, Thu 1947”. Không biết người nhạc sĩ hào hoa này đã mang theo hình ảnh cô gái làng Chèo nào vào ca khúc, nhưng ông vốn dĩ là “tay chơi số 1” Bắc Kỳ, với vô số bóng hồng len lỏi trong suốt chặng đường nghệ thuật. Đoàn Chuẩn, theo lời kể của con trai là Đoàn Đính, nổi tiếng về tính cách phong lưu và hào hoa có thể so sánh như công tử Bạc Liêu ở Miền Nam Việt Nam thời bấy giờ. Nhạc sĩ, nhà phê bình âm nhạc Nguyễn Thụy Kha khẳng định. Đã có rất nhiều huyền thoại xung quanh những chuyện tình lãng mạn của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Về việc mỗi sáng ông đều thuê người gửi một bông hồng đỏ đến nhà người thiếu nữ ông si mê, suốt gần 3 năm liền. Cho đến khi bông hồng thứ 1000 đã đến tay người đẹp, ông chủ trẻ mới xuất hiện trên ngưỡng cửa nhà nàng. Đoàn Chuẩn nổi tiếng chơi sang và chơi… ngông nữa. Chàng công tử hào hoa và những “người em gái” “Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn không bao giờ yêu cô nào không xinh” –Sinh ở Hải Phòng nhưng trưởng thành tại Hà Nội, là con trai chủ hãng nước mắm Vạn Vân nổi tiếng khắp Đông Dương thời bấy giờ, Đoàn Chuẩn sở hữu tới 6 chiếc xe đẹp nhất Hà Nội. Trong những chuyến chở người đẹp xuống Đồ Sơn chơi, ông sẵn sàng phi xe xuống tận bãi biển chứ không đậu trên bờ như người khác, và vung tiền trả cho tất cả những diện tích nơi chiếc ô của ông tỏa bóng mời người đẹp ngắm biển. Có lần, ông biết đích danh một chàng con nhà có thế lực khác định mời cô gái mà ông thương mến đi chơi, ông bèn thuê hẳn hai chiếc xe tới cửa nhà nàng, đậu chắn hai đầu chiếc xe của đối thủ, rồi khóa xe lại bỏ đi chơi. Lúc đó, ông mới đàng hoàng xuất hiện trên chiếc xe riêng hạng sang tới đón người đẹp. Đoàn Chuẩn kỹ tính nhất là chuyện ăn và mặc. Bữa ăn của ông phải được chăm sóc rất cầu kỳ, ví dụ như món tôm biển, phải dùng loại còn tươi nguyên và được chế biến sau 15 phút mang về từ thuyền câu tôm. Có ngày, ông thay tới 6 bộ quần áo khác nhau để “đuổi theo” những cuộc rong chơi. Mỗi bài tình ca quyến rũ và đầy mê lực của ông đều là dấu ấn của một bóng hồng khác nhau. Có người kể lại đã từng thấy đôi khi ông khóc khi đàn lại những bài tình ca xưa, được cho rằng tặng M, tặng T… Nhưng chưa ai được nghe ông tâm sự về họ. Chỉ có thể biết một phần những câu chuyện tình của ông qua tài tử Ngọc Bảo – người bạn tri kỷ, người hát nhạc Đoàn Chuẩn hay nhất. Và, đặc biệt hơn nữa, song hành với những câu chuyện tình nổi đình đám của người nhạc sĩ tài hoa, chính là người vợ yêu dấu của ông. “Ông ấy lãng mạn, đa tình lắm. Có vậy, ông mới viết được những bài hát hay thế. Ông muốn ngang thì ngang, muốn dọc thì dọc, tôi chiều ông hết. Bổn phận của tôi là chăm chồng, nuôi con, lúc nào cũng an phận chịu đựng. Ông không biết đến sinh kế, gia đình, con cái... Đời ông phóng khoáng. Nghe nhạc ông lúc nào tôi cũng ngạc nhiên - sao ông tài thế?...” Ông bà Đoàn Chuẩn và cô con gái đầu lòng. Đối với nhiều người, mùa thu như một bức tranh đẹp nhất trong bốn mùa với màu xanh của đất trời, với sắc vàng của hoa cúc, của áo mơ phai và của cả lá vàng. Mùa thu là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ và nhạc sĩ. Nhưng sáng tác hay và lấy lấy mùa thu là chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm của mình có lẽ chỉ có Đoàn Chuẩn - Nhạc sĩ của mùa thu. Trong 10 tình khúc nổi tiếng của ông, có đến 9 tác phẩm viết về mùa thu, duy chỉ có Gửi người em gái miền Nam là viết về mùa xuân, nhưng trong ca khúc vẫn còn hình ảnh của mùa thu đã xa. Lúc sinh thời, Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn từng nói: “Giời đất cho ta đủ cả bốn mùa, nhưng hình như chỉ có mùa thu là mùa của tình yêu, vì mùa hè thì oi bức, ồn ào quá; còn mùa đông lại giá lạnh, cô quạnh quá; mùa xuân thì vạn vật còn mải “rong chơi”…” cho nên ông mới có những câu chữ đầy cảm xúc như một kẻ đã trót si tình với mùa thu đến say sưa mê mẩn đến vậy. Giai đoạn ông sáng tác nhiều nhất là thời kỳ đầu thập kỷ 50, thời kỳ này đã tạo ra một Đoàn Chuẩn “vua slow” với những tình khúc về mùa thu Hà Nội. Trong giai điệu của ông, ta cảm thấy có tiếng lá rơi nhè nhẹ, có tiết heo may se lạnh, một chút bâng khuâng, yêu thương, luyến tiếc. Hơn nữa, còn thấy phảng phất ở giai điệu ấy hình bóng huyền diệu của những “tuyệt sắc giai nhân” đã hơn một lần làm xao xuyến trái tim “chàng công tử Hà Nội” dịu dàng và đa tình này. Vẫn một tình nghệ sĩ ấy, vẫn một tà áo xanh ấy, vẫn gặp gỡ và chia tay muôn thuở. Tình khúc mùa thu của Đoàn Chuẩn là trang nhật ký của những mối tình thì không sai. Yêu đến mức bất chấp mọi nguy hiểm, ở trên mọi ràng buộc mới có thể thốt lên những giai điệu si tình đến thắt lòng người như vậy. Và trong tất cả những mê đắm ấy, mùa thu Hà Nội luôn như thể “cời than bếp lửa”. Ở Cánh hoa duyên kiếp thì: “Như duyên em thầm kín. Trong hương thu màu tím buồn…”. Ở Lá thư thì: “Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau phong thư ngào ngạt hương…”. Ở Gửi gió cho mây ngàn bay thì: “Với bao tà áo xanh đây mùa thu…”. Ở Chuyển bến thì: “Một sớm thu về chuyển bến xuôi…”. Ở Dang dở (hay Tà áo xanh) thì: “Ta quen nhau mùa thu…”. Ở Lá đổ muôn chiều thì: “Thu đi cho lá vàng bay…”. Đến ngay ở Gửi người em gái miền Nam tuy viết về mùa xuân nhưng cũng cứ như là đứng từ mùa thu vọng tới: “Nhưng một sớm mùa thu giữa khung trời tím ngát…”. Ba ẩn số trong cuộc đời nghệ sĩ Ẩn số thứ nhất là cái tên chung: Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Nghệ sĩ Guitare Hawaii Đoàn Đính kể - tên thật của người bạn này là Tạ Đình Thâu (một nhiếp ảnh gia tri kỷ với Đoàn Chuẩn). Chưa bao giờ ông cụ nói về cái tên chung này. Nhưng ngay từ “Ánh trăng mùa thu”, ông đã ghi tên chung là Đoàn Chuẩn – Từ Linh. Đây vẫn là một ẩn số mà cho đến tận bây giờ vẫn chưa ai giải mã được. Tất cả các ca khúc được sáng tác vào giai đoạn đầu (1947 – 1956) đều được ký tên chung Đoàn Chuẩn – Từ Linh, hoặc “Nhạc: Đoàn Chuẩn, Lời: Từ Linh”. Vậy Từ Linh là ai? Theo nhạc sĩ Phạm Duy thì Từ Linh là nhân viên thư ký của hãng nước mắm Vạn Vân, nhạc sĩ Trần Thịnh lại cho rằng đó là người tài xế riêng của Đoàn Chuẩn còn người viết biết được rằng Từ Linh tên thật là Hà Đình Thâu (dễ nhớ, vì trùng họ, trùng chữ lót với người viết) là em của một người bạn thân của Đoàn Chuẩn. Tuy nhiên, dù Từ Linh là ai thì vẫn chắc chắn đây là một “tri âm, tri kỷ” của Đoàn Chuẩn. Một tình bạn son sắt, chung thủy cho đến lúc cả hai đều khuất bóng. Không ai biết Từ Linh đã đóng góp cụ thể như thế nào vào nhạc Đoàn Chuẩn nhưng chắc chắn là Từ Linh đã có đọc, có góp ý, và có thể đã sửa lời hoặc đặt lời cho ca khúc của Đoàn Chuẩn được thăng hoa hơn… có những ca khúc người ta dám chắc mười mươi chỉ là một mình Đoàn Chuẩn sáng tác nhưng vẫn được tác giả ký tên Đoàn Chuẩn – Từ Linh một cách trân trọng. Sau 1954, Từ Linh di cư vào Nam còn Đoàn Chuẩn vẫn neo mình ở căn nhà số 9, Cao Bá Quát – Hà Nội. Sau này, ở miền Nam in lại những ca khúc của cặp đôi này nhưng chỉ còn ghi tên Từ Linh Từ Linh mất tại Sài Gòn năm 1992. Còn Đoàn Chuẩn cũng đã ra đi trong vòng tay của người vợ suốt đời chịu đựng cái tính hào hoa, đa tình của ông rồi lại chăm sóc suốt gần 2 năm ông bị tai biến mạch máu não cho đến những giây phút cuối đời. Điều lạ lùng là ngày mất của Đoàn Chuẩn (15.11.2001) lại trùng với sinh nhật của một nhạc sĩ thân thiết, cùng quê Hải Phòng: nhạc sĩ văn Cao (15.11.2001). Ẩn số thứ hai là khoảng lặng suốt 31 năm không sáng tác một nhạc phẩm nào. Chưa ai tìm ra lời giải cho quãng lặng đáng kể này, kể cả các nhà phê bình và những người thân trong gia đình cố nhạc sĩ nhưng ai nghe nhạc của ông cũng tiếc là sao ông không viết thêm nữa những ca khúc làm say mê, quyến rũ lòng người. Ẩn số thứ ba là màu tím trong nhạc phẩm của Đoàn Chuẩn. Ông vốn nổi tiếng với hai màu. Các nhạc phẩm của ông đều liên quan đến mùa thu vàng và màu xanh khỏe khoắn sáng lên trong ánh vàng rực rỡ ấy (Tà áo xanh, Tình nghệ sĩ, Gửi gió cho mây ngàn bay, Lá đổ muôn chiều, Thu quyến rũ, Vàng phai mấy lá). Nhưng, có đôi khi, màu tím xuất hiện giản dị, chân phương và khiêm tốn: “Cành hoa tim tím bé xinh xinh đón xuân về…” (Gửi người em gái); “Chiều nào áo tím nhiều quá…” (Đường về Việt Bắc). Đó là hình ảnh người vợ thân thương của ông, là chiếc áo tím bà mặc khi còn đi học, là sự ẩn mình canh cánh bên người chồng tài hoa. Tổng số tác phẩm của Đoàn Chuẩn không nhiều, chỉ gần 20 ca khúc nhưng đã để lại cho đời cả một gia tài âm nhạc. Ca khúc tình tứ, lãng mạn của ông thì luôn vang mãi trong niềm yêu của công chúng yêu nhạc, nhưng nhiều sự thật khác về cuộc đời ông thì lại nằm trong sự im lặng đến quyến rũ – như những giọt thu mà ông đã im lìm gieo trên nốt nhạc. Từ mối tình đầu để có một gia đình với một người đẹp là bà Đoàn Chuẩn đẹp tới tận bây giờ - hiền thảo, đôn hậu và bao dung, Đoàn Chuẩn đã phiêu diêu qua những cung bậc yêu đương nồng cháy và nóng bỏng đến độ phải thốt lên những giai điệu lạ lùng trong tập Những bài hát bị xé mà đến nay còn nhiều người chưa được thưởng thức. Đấy là mối tình cuối cùng sâu đậm nhất trong trường tình Đoàn Chuẩn. Nàng là con gái đầu lòng của một viên chức hỏa xa kháng chiến, cha nàng là tự vệ chiến đấu nội thành. Khi rút ra chợ Đại, cha mang theo nàng mới 12 tuổi. Vài năm sau, nàng về lại Hà Nội với mẹ để cùng mẹ chăm sóc năm em dưới mình. Ở tuổi dậy thì, nàng đã tần tảo làm thuê, đánh máy chữ, đan áo len để có tiền góp với mẹ nuôi các em. Nàng đẹp đến kiêu sa và hát rất hay. Tình cờ, một nhạc công đài Pháp - Á đã phát hiện ra tài nghệ này của nàng. Và nàng đã đăng quang “vương miện thủ khoa” trong cuộc thi hát do đài Pháp - Á tổ chức. Chính lúc ấy, nàng mới biết tác giả những tình khúc mùa thu Hà Nội. Từ chỗ muốn nâng đỡ một tài năng trẻ, giúp cho học nhạc, giúp những sô diễn, tình cảm đã len lén vào hồn từ khi nào mặc dù xung quanh nàng biết bao vệ tinh bủa vây. Tình cảm đang lãng mạn vậy thì đột nhiên nàng “biến” khỏi Hà Nội. Sự “biến” của nàng khiến Đoàn Chuẩn chống chếnh. Ông cảm thấy mất mát thực sự, xót xa trong cô đơn. Nhưng thực ra không phải nàng cố ý cho Đoàn Chuẩn “leo cây” mà vì người cha bị mất đột ngột ở vùng tự do. Chú nàng là đại đội trưởng vệ quốc đoàn đã cử liên lạc bí mật vào thành đón nàng ra ngoài vùng tự do vào cuối mùa xuân 1954, đúng thời điểm mở ra chiến dịch Điện Biên Phủ. Rồi nàng trở về cùng đoàn quân giải phóng thủ đô. Họ gặp lại nhau gấp gáp hối hả, như tìm lại một cái gì đó cùng đánh mất. Để rồi lại vĩnh viễn xa nhau: “Có những đêm về sáng - Đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi!” và để rồi: “Nhớ nhau đành tìm trong tiếng hát và tìm trong nét bút xa xôi”. “ “Đúng là có những lúc, gia đình chúng tôi đã rơi vào tình cảnh im lặng đợi chờ cơn bão – Nghệ sĩ Guitare Hawaii Đoàn Đính bộc bạch – Nhưng rồi, cuối cùng thì mọi sự vẫn bình yên. Hồi bố tôi yêu một người ca sĩ, tên là Lê Hằng, mẹ tôi đã tìm tới tận nhà cô ấy. Mẹ tôi hỏi cô ấy có yêu bố tôi không. Cô ấy nói có. Mẹ tôi bảo: Tôi còn yêu anh ấy gấp 10 lần cô. Nếu cô thực lòng với anh ấy, tôi xin giao cho cô cả mấy đứa con. Vậy mà cô Hằng tỉnh ngộ, xé hết tất cả những bản nhạc bố tôi đã viết tặng và rời xa ông. Sau này, những bài đó được chúng tôi sưu tầm lại và ấn hành trong tập Bài ca bị xé”. Đi kháng chiến, thì Đoàn Chuẩn vẫn là công tử Hà Thành chính hiệu. Cả 10 bài hát viết trong thời gian kháng chiến mà người ta không thấy bóng dáng kháng chiến ở chỗ nào! Ông đã nhận mình là “tay mơ” trong sáng tác, và trong cả… tình yêu. Chẳng hạn, “Tình Nghệ Sĩ” là khi đi tản cư, do mê một cô nàng bán hàng cà phê xinh đẹp người Hà Nội. Quán tên là Thanh Hương, vì thế ban đầu nhạc sĩ nghĩ: “Đây quán Thanh Hương mấy thu đầm ấm…” sau đó, mới thành “Đây khách ly hương mấy thu vàng ấm. Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng…”. Cũng may, không thì ngày nay “Tình Nghệ Sĩ” lại không còn quảng đại mà sẽ bị gói trọn trong hai chữ Thanh Hương xa xôi ngày nào. Tự nhận mình là đa tình, thích gái đẹp. Có lẽ chính vì thế, khi có gia đình rồi, có được người vợ cũng đẹp lắm rồi, ông “hết hứng” viết. Chính bản thân ông cũng thành thật nói lên một điều “rất đáng tiếc” của mình cuối đời là tiếc sao “Tất cả những cô ca sĩ hát nhạc Đoàn Chuẩn – Từ Linh hay thì… chẳng có cô nào đẹp cả”, mà ông suốt đời chỉ yêu cái đẹp thôi! Trong cao trào cách mạng, ông tham gia thanh niên xung phong thành Hoàng Diệu. Kháng chiến toàn quốc, ông vào tham gia công tác văn nghệ ở Khu IV và bắt đầu sáng tác ca khúc. Các bài “Tình Nghệ Sĩ” (1948) và “Đường Về Việt Bắc” được viết vào thời kỳ đó. Sau đó, Đoàn Chuẩn về lại Hà Nội. Tình khúc Đoàn Chuẩn bắt đầu nổi tiếng ở giai đoạn này. Toàn bộ ca khúc của mình, ông đều đề tên chung Đoàn Chuẩn – Từ Linh trong phần tác giả. Tình khúc Đoàn Chuẩn in đậm mùa thu Hà Nội. Đó là “Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay”, “Lá Thư”, “Thu Quyến Rũ”, “Cánh Hoa Duyên Kiếp” (còn gọi là “Dạ Lan Hương”), “Tà Áo Xanh”, “Chuyển Bến”, “Lá Đổ Muôn Chiều”… Bài hát “Gửi Người Em Gái Miền Nam” được viết sau này dường như là bài hát cuối cùng khép lại sự nghiệp sáng tác của Đoàn Chuẩn. “Chôn sâu tận đáy lòng” tình cảm ấy, Đoàn Chuẩn đã khép lại giai đoạn sáng tạo những tình khúc mùa thu Hà Nội độc đáo vào những năm đầu hòa bình ở miền Bắc, sau khi bài Gửi người em gái miền Nam bị phê phán và ngừng không phát sóng. Mãi tới khi bước vào thời kỳ đổi mới và mở cửa, những tình khúc mùa thu của Đoàn Chuẩn mới thực sự được khôi phục cùng những tình khúc lãng mạn của Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước… ông phấn khởi, khỏe ra, mừng tủi giữa bạn bè. Có nhiều giai thoại về sự ra đời của bài hát “Gửi Người Em Gái Miền Nam”, tuy nhiên, bài viết này cho rằng, khi “người trong mộng” đi lấy chồng, Đoàn Chuẩn ngẩn ngơ như người mất hồn và trút tâm sự vào bài hát. Sự ra đời của ca khúc “Gởi Người Em Gái Miền Nam” Vì muốn chạy trốn mối tình vô vọng, năm 1954 – chia đôi đất nước, nàng ca sĩ “Vàng phai mấy lá” đã vào Nam và lập gia đình. Ở lại miền Bắc, Đoàn Chuẩn ngẩn ngơ như người mất hồn, và ông viết “Gửi Người Em Gái Miền Nam” – một ca khúc có mùa xuân, có tết duy nhất nằm trong “kính thưa các bản nhạc … mùa thu”, của ông: “Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng. Rừng đào phong kín cánh mong manh hé hoa lòng. Hà Nội chờ đón tết, hoa chen người đi, liễu rủ mà chi. Đêm tân xuân Hồ Gươm như say mê. Ngàn phía đến lễ đền. Chạnh lòng tôi nhớ tới người em…”. Nàng trong mắt Đoàn Chuẩn thật lộng lẫy, kiêu sa: “Tôi có người gái tuổi chớm dâng hương, mắt nồng rộn ý yêu thương. Đôi mắt em nói nhiều, tha thiết như dáng Kiều. Ôi tình yêu… Em tôi đi màu son trên đôi môi. Khăn san bay lả lơi trên vai ai. Trời thắm gió trăng hiền. Hà Nội thêm dáng những nàng tiên…” Bài hát Gửi Người Em Gái Miền Nam viết bằng tay của Đoàn Chuẩn Cũng cần nói thêm. khoảng từ 1957, nhạc Đoàn Chuẩn bị cấm hát ở miền Bắc, trong khi ở miền Nam thì công chúng được hát thoải mái nhạc của bất kỳ tác giả nào, miễn sao bài hát đó không dính líu đến chính trị. Riêng ca khúc trên được ngắt bớt 2 chữ “Miền Nam” ở cái tựa, chỉ còn “Gửi Người Em Gái”. Đến thập niên 1990, nhạc Đoàn Chuẩn mới được hát lại trong phạm vi toàn quốc. Nhạc Đoàn Chuẩn và các nhạc sĩ cùng thời với ông thường mang hơi hướm phương Tây, nhưng ở “Gửi Người Em Gái” tác giả đã hạ một câu lục bát rất “ngọt”: “Người đi cho dạ sao đành. Đường quen lối cũ, ân tình nghĩa xưa?”. Nhiều người cho rằng, nàng của những giai thoại kể trên chính là ca sĩ T.V. lừng danh một thời, hiện sống ở TP HCM, người viết đã may mắn được gặp và mạo muộn hỏi bà có phải là nhân vật chính trong giai thoại này. Bà cười, bảo: “Không phải đâu! Đó là ca sĩ M.L., bạn thân của tôi”. Ca từ trong nhạc Đoàn Chuẩn hầu như có chung một quy ước, ở đó có mùa thu, có người thiếu nữ tô quầng mắt, nét son trên đôi môi, khép nép trong tà áo xanh, có đôi mắt như hồ thu, tóc thề xõa trong gió… Tất cả đều như tranh Tố nữ. Những ghi chú bên lề bản nhạc cũng đầy bóng giai nhân Viết xong một bản nhạc, khi đang còn dư âm cảm xúc, Đoàn Chuẩn thường viết vài dòng “ghi chú” trên bản nhạc để nhắc nhớ những kỷ niệm cho riêng mình, câu nào cũng thấp thoáng bóng giai nhân, có khi là những câu thơ, như: “Để nhớ một kỷ niệm với V.P. và M.L. Em ơi, lá có rơi ngoài muôn ngả/ Thì chung quy cũng về đất thân yêu/ Anh phong sương mưa nắng đã hoen nhiều/ Đời nhạc sĩ có gì vui đâu em hỡi/ Anh ra đi em cũng đừng chờ đợi/ Mai anh về, kia nữa hoặc chẳng bao giờ” (ghi trên Chuyển Bến), hay: “Viết tại 63 Lý Thường Kiệt và 46 Hàng Cót, Hà Nội (rạp Đại Đồng) cuối năm 1954, bước sang năm 1955. Không sao kìm nổi xúc động và nhớ vô cùng” (Lá Đổ Muôn Chiều)”… Đã có rất nhiều người ngộ nhận dòng nhạc của Đoàn Chuẩn là “nhạc tiền chiến”. Thực ra, giai đoạn sáng tác chính ông (1948 – 1956) với khoảng 10 bài quen thuộc là ở trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Sau này ông có sáng tác thêm những ca khúc như: “Tâm Sự” (1956), “Một Gói Nho Khô”, “Cánh Hoa Pensée” (1998), “Phấn Son” (1989), “Mầu Nắng Có Bao Giờ Phai Đâu” (1989)… nhưng không mấy phổ biến. Vài năm trước khi từ trần, bệnh xuất huyết não khiến ông không thể di chuyển được và nói rất khó khăn. Câu nói cuối cùng ông nói trước khi không nói được là: “Rồi những người tình sẽ ra đi. Rồi nhạc sĩ sẽ ra đi. Chỉ còn tác phẩm ở lại”. Đầu năm 2000, ông bị tai biến mạch máu não và hôn mê. Sau đó, ông tỉnh lại nhưng mất tiếng nói, chỉ có thể bút đàm cho đến lúc qua đời lúc 22 giờ, ngày 15 tháng 11 năm 2001. Về già, gia cảnh sa sút nhưng vợ chồng NS Đoàn Chuẩn vẫn rất êm ấm thuận hòa. Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn-Từ Linh và tác phẩm: 1. Ánh trăng mùa thu, 1947 (ca khúc đầu tiên) 2. Tình nghệ sĩ, 1948 3. Lá thư, 1948 4. Đường về Việt Bắc, 1949 5. Thu quyến rũ, 1950 6. Chuyển bến, 1951 7. Gửi gió cho mây ngàn bay, 1952 8. Cánh hoa duyên kiếp (hay “Dạ lan hương”), 1953 9. Lá đổ muôn chiều, 1954 10. Tà áo xanh (hay “Dang dở”), 1954-1955 11. Chiếc lá cuối cùng, 1955 12. Để có những chiều tắt nắng, 1955 13. Một gói nho khô, một cánh pen-séc, 1955 14. Vàng phai mấy lá (hay “Vĩnh biệt”), 1955 15. Gửi người em gái miền Nam, 1956 16. Thuở trâm cài (bút danh Việt Tử; thập niên 1960) 17. Khuôn mặt em (thơ: Văn Cao), 1987 18. Đường thơm hoa sữa gọi, 1988 19. Màu nắng có bao giờ phai đâu, 1989 (ca khúc cuối cùng) 20. Bài ca bị xé. 21. Bên cầu. |
|||
dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này: langtrang (14-11-2017 09:31 AM) |
10-12-2017, 05:10 AM
Bài viết: #44
|
|||
|
|||
RE: PPS nhạc thu & NHẠC KHÁC...
LAST CHRISTMAS
DQ-LAST CHRISTMAS2.ppsx (Kích cỡ: 9.07 MB / Tải về: 379) Sáng tác: nhạc sĩ Wham Các ca sĩ: Wham,Taylor Swift,Ashley Tisdale,Crazy Frog,Hilary Duff,Cascada,Savage Garden,Cheetah Girls “Last Christmas” là một trong những bài hát Giáng sinh phổ biến nhất vào dịp Noel Ra mắt vào năm 1984 bởi George Michael, “ Last Christmas ” nhanh chóng trở thành bài hát Giáng sinh phổ biến nhất vào dịp Noel. Bài hát da diết với tâm sự của một chàng trai về mối tình dang dở trong mùa Giáng sinh. "Last Christmas" sau đó đã đã trở thành ca khúc được các nghệ sĩ trẻ cover nhiều nhất. Từ Backstreet Boys, Human Nature, Savage Garden cho đến Hillary Duff, Ashley Tisdale, Taylor Swift… Nhưng có lẽ bản thu âm của nhóm Wham vẫn luôn được coi là thành công nhất. Mặc dù giai điệu bài hát đượm buồn nhưng vẫn đủ ấm áp để xua đi phần nào cái giá lạnh của ngày đông đã làm nên sức sống mãnh liệt cho bài hát bất hủ này. Lời bài hát “Last Christmas” - ca khúc Giáng sinh được yêu thích: Last Christmas I gave you my heart but the very next day you gave it away this year to save me from tears I'll give it to someone special Last Christmas I gave you my heart but the very next day you gave it away this year to save me from tears I'll give it to someone special Once bitten and twice shy I keep my distance but you still catch my eye Tell me baby do you recognize me Well it's been a year It's doesn't suprise me Happy christmas I wrapped up and send it with a note saying I love you I mean it now I know what a fool I've been But if you kiss me now I'd know you fool me again Last Christmas I gave you my heart but the very next day you gave it away this year to save me from tears I'll give it to someone special Last Christmas I gave you my heart but the very next day you gave it away this year to save me from tears I'll give it to someone special A crowded room friends with t ired eyes I'm hiding from you and your soul of ice My God I thought you were someone to rely on Iguess I was shoulder to cry on A face on a lover with a fire in his heart A man under cover but you tore me apart woo woo woo Now I've found a real love you'll never fool me again Last Christmas I gave you my heart but the very next day you gave it away this year to save me from tears I'll give it to someone special Last Christmas I gave you my heart but the very next day you gave it away this year to save me from tears I'll give it to someone special A face on a lover with a fire in his heart A man under cover but you tore him apart I'll give it to someone I'll give it to someone special someone special |
|||
01-01-2018, 09:31 PM
Bài viết: #45
|
|||
|
|||
RE: PPS NHẠC> NHẠC MÙA THU & NHẠC KHÁC
tình cờ nhận một pps nhạc về mùa thu Nhật Bản cài bài nhạc mà dq rất thích > gây cảm hứng mượn ý tác giả Phan thành Trung làm ra pps sau , kính mời xem qua. ( pps của anh Trung thì xin kg đưa lên)
KÍNH MỜI XEM * MÙA THU JAPAN* DQ- MÙA THU JAPAN.ppsx (Kích cỡ: 8.35 MB / Tải về: 385) |
|||
11-04-2018, 06:32 PM
Bài viết: #46
|
|||
|
|||
RE: PPS NHẠC> NHẠC MÙA THU & NHẠC KHÁC
MỜI XEM PPS * ÁO DÀI VN * NHẠC JO MARCEL.
DQ- ÁO DÀI VIETNAM.ppsx (Kích cỡ: 6.7 MB / Tải về: 389) LỜI BÀI HÁT(trước 75)) ÁO DÀI VIET NAM – JO MARCEL Xinh, xinh thật là xinh cô gái Việt Nam Duyên, duyên thật là duyên cô gái Miền Bắc Thương, thương thật là thương cô gái Miền Nam Yêu, yêu kiều dịu dàng cô gái Miền Trung Rồi một mùa thu ta về ta nắm tay nhau Cùng hát ca vang mừng chiếc áo dài Một chiếc áo dài của người Việt Nam Người Việt Việt Nam trong chiếc áo dài Người Việt Việt Nam tha thướt bước về Vẻ đẹp Việt Nam ngàn đời không phai Cùng tha thướt bước trên đường của xứ khách Cùng nắm tay nhau chia xẻ buồn vui Cùng tiếp tay nhau duy trì nét đẹp Vẻ đẹp của người Việt Nam Xinh, xinh thật là xinh cô gái Việt Nam Duyên, duyên thật là duyên cô gái Miền Bắc Thương, thương thật là thương cô gái Miền Nam Yêu, yêu kiều dịu dàng cô gái Miền Trung Rồi một mùa thu ta về ta nắm tay nhau Cùng hát ca vang mừng chiếc áo dài Một chiếc áo dài của người Việt Nam Xem thêm Ritz với Jo Marcel Đầu những năm 1970 tại Sài Gòn có 5 phòng trà nổi tiếng nhất được gọi là 'ngũ đại phòng trà'. Đó là Tự Do, Đêm Màu Hồng, Queen Bee nằm trên hai trục đường lớn trung tâm Nguyễn Huệ và Tự Do (Đồng Khởi). Tuốt vào Trần Hưng Đạo, góc Phát Diệm là phòng trà Ritz và Baccara. Lệ Thu _ Anh Khoa Dân mê nhạc trẻ thập kỷ 1970 chắc không ai xa lạ về những cái tên như Trường Kỳ, Nam Lộc và đặc biệt Jo Marcel. Nhạc sĩ này ca hay, biết sử dụng âm thanh, ánh sáng hiện đại hơn nhiều phòng trà khác nên được coi là phù thủy của âm thanh ánh sáng sân khấu. Jo còn là một nhà sản xuất băng nhạc có hạng, đóng đô ở lầu 3 của Crystal Palace (Thương xá Tam Đa). Trước khi dọn về Ritz, Jo Marcel tổ chức phòng trà tại Queen Bee vào năm 1969. Sau khi hết hợp đồng thuê Queen Bee, Jo thuê phòng trà Ritz của ông Nguyễn Văn Xướng (chủ rạp Hưng Đạo). Ngoài thành phần ca sĩ, Ritz còn nổi bật lên vì âm thanh và màu sắc mà Jo Marcel đã bỏ rất nhiều công sưu tầm để mang lại cho phòng trà của mình một sắc thái riêng biệt, khác lạ với những phòng trà khác. Jo Marcel còn sử dụng kỹ thuật điện ảnh để tăng phần hấp dẫn và có lẽ là mới lạ nhất thời gian đó. Trên sân khấu là một màn ảnh của rạp xi nê bỏ túi. Nào là phi thuyền Apolo với người phi công là ca sĩ Sỹ Phú đã du học tận Mỹ xa xôi. Những danh lam thắng cảnh của năm châu, của đại dương, của núi, của suối, hoa lá, chim chóc với diễn viên chính là các ca sĩ của Ba Con Mèo (cho phần trình diễn của ban tam ca này), ban hợp ca Bốn Phương (cho phần trình diễn của những đứa con Dương Thiệu Tước - Minh Trang)... Những cảnh này là do Jo Marcel vừa quay phim và đạo diễn. Sau này, Jo có tự tay làm một cuốn phim về nhạc trẻ dựa theo truyện dài Tuổi choai choai của Trường Kỳ. Jo Marcel tên thật là Vũ Ngọc Tòng, sinh năm 1936 tại Hà Nội và là trưởng nam của kỹ sư Vũ Ngọc Thuyến - cũng là một nhạc sĩ và ca sĩ có biệt tài. Năm 1958, Tòng bắt đầu đi hát tại ca vũ trường Đại Nam với tên Ngọc Minh. Năm 1960, Tòng qua hát cho nhà hàng Caravelle. Trong thời gian hát tại đây, ông có dịp học hỏi rất nhiều vì được hát chung với một số ca sĩ nước ngoài. Năm 1963, Tòng ký giao kèo với nhà hàng Baccara. Là một ca sĩ nhưng lại hiểu biết về kỹ thuật âm thanh, nên mỗi khi hát ở một nhà hàng mới, Tòng được “đặc quyền” thay đổi hệ thống âm thanh cho phù hợp với giọng ca của mình. Tại Baccara, Tòng hợp ca cùng nữ ca sĩ Bạch Bích trong những bản nhạc nước ngoài nên đổi tên mới là Jo Marcel. Giọng hát chủ lực của phòng trà Ritz là Lệ Thu. Khán giả đến với Ritz trước nhất là vì Lệ Thu, như đến với Đêm Màu Hồng vì Thái Thanh, Queen Bee vì Khánh Ly. Vì tiếng hát Lệ Thu, những người ái mộ phải đi ngược vào đại lộ Trần Hưng Đạo, góc Phát Diệm (Trần Đình Xu) trong khi Tự Do, Maxim’s, Đêm Màu Hồng ở ngay trung tâm. Đến hát ở Ritz, Lệ Thu không cần trang điểm nhiều vì hệ thống ánh sáng ở phòng trà này đã nâng cao khuôn mặt của nàng. Lệ Thu tên thật là Bùi Thị Oanh, sinh năm 1943 tại Hà Nội trong một gia đình công chức. Sau đó, gia đình chuyển xuống Hải Phòng cho đến năm 1954 vào nam. Tại Sài Gòn, cô học ở Trường Les Lauriers (Tân Định) cho tới lớp đệ tứ. Nhờ đã học nhạc lý tại Trường Sainte Marie Hải Phòng, thêm có khiếu về ca nhạc, Lệ Thu tự trau dồi ca hát bằng phương pháp nghe các danh ca hát trên đài phát thanh. Ngoài ra cô cũng được nhạc sĩ Đức Quỳnh chỉ dẫn thêm về ca nhạc. Trên Báo Sinh Hoạt Nghệ Thuật năm 1971, Lệ Thu đã giải thích: “Lệ Thu là mùa thu tráng lệ, mùa thu tuyệt vời. Thú thật tên Oanh cũng đẹp lắm chứ. Nhưng khi mới đi hát bị một ông khách hỏi tên bất ngờ, quýnh quá Oanh nói đại tên Thu. Thu không thì trơ quá nên về sau thêm chữ Lệ vào cho đẹp”. Nhưng từ tháng 4.1970 Lệ Thu đã về với phòng trà Tự Do. Ông Ngô Văn Cường chủ Tự Do đã dùng giá cao để giựt Lệ Thu ra khỏi Ritz của Jo. Jo ký với Lệ Thu là 700.000 đồng hát một năm, cộng tiền cát sê khá cao, còn ông Cường kêu Lệ Thu trả hợp đồng 1 triệu và tiền hát hằng đêm gấp đôi. Ngoài Lệ Thu, Ritz còn có Ba Con Mèo hay mặc soiree, đầm , mini - jupe...hát rất lả lướt, nụ cười trong vắt, rất....Tây . BA TRÁI TÁO ( The Apple ) gồm : Tuyết Hương, Tuyết Dung & Vy Vân. Vy Vân hát nhạc Pháp loại có " trình độ ". Các nhóm nhạc ấy chơi rất điệu nghệ hút hồn ...phái mày râu nhiều lắm ! ban hợp ca Bốn Phương và ban The Dreamers với những đứa con của bố già Phạm Duy như Duy Quang, Thái Hiền, Duy Cường, Julie Quang, Duy Minh. Hằng đêm, Phạm Duy cùng những đứa con chất nhau trên chiếc xe hơi cũ hát ở Embassy - một club Mỹ trên đường Nguyễn Trung Trực, sau đó là Queen Bee rồi về đây. Người thủy chung với Jo Marcel nhất là Anh Khoa, hết Queen Bee rồi đến Ritz. Tiếng hát của Anh Khoa là tiếng hát của những rặng thùy dương hiền hòa của miền biển Phan Thiết. Ritz còn có Mỹ Thể, giọng hát của thế hệ cùng thời với Lệ Thanh, Thanh Thúy. Mỹ Thể có tiếng ca cao vút nhưng không thanh như Lệ Thu mà ngộp thở, mà say. Mỹ Thể hồi ấy xuất hiện trên ti vi chỉ với tà áo dài cổ thuyền, tóc thề ngang vai. Hầu như chương trình của Shotguns đều có cô ấy. Ca khúc mà người ta hay nhắc khi nói về Mỹ Thể : Tóc mai sợi vắn sợi dài. Nghệ sỹ Jo Marcel hát nhạc Việt lẫn nhạc ngoại đều thu hút : Ai về sông Tương, Mộng dưới hoa, Dư âm, Em đến thăm anh đêm 30. Thập niên 70, ca sĩ này có ra album Xuân 1 971 với một số nhạc phẩm về mùa xuân, tập hợp các ca sĩ : Thanh Lan , Thanh Thúy, Khánh Ly, Thái Thanh ..và Bạch Tuyết ( trình bày Gái xuân - Tô Vũ - thơ Nguyễn Bính ; trước 75 , Bạch Tuyết hát tân nhạc rất sáng giá cùng với cố NS Hùng Cường ). Nam danh ca Sỹ Phú với chất giọng trầm ấm, truyền cảm , được xem là một trong những giọng nam hay thuở ấy. Bến xuân, Chờ người, Thà như giọt mưa, Nghe những tàn phai, Bây giờ tháng mấy.., Hai năm tình lận đận , Em hiền như masoeur , Nắng chiều, Ngậm ngùi và rất nhiều tình khúc êm dịu - một khi Sỹ Phú cất lên là chỉ muốn nghe ...và nghe thôi . Tiếng hát của Lệ Thu thì đâu xa lạ gì nữa. Nước mắt mùa thu, Xin gọi là cố nhân, Cho tôi được một làn, Đan áo mùa xuân, Mùa thu lá bay, Thu sầu , Như cánh vạc bay, Hoài cảm, Hương xưa, Đếm sao cho xuể những tình khúc chị đã hát ! Lệ Thu với chất giọng cao đặc biệt , mạnh mẽ , đủ ngân , luyến láy , đưa người nghe đến tận cùng của cảm xúc. Có điều đặc biệt, khi ở Mỹ - cả Khánh Ly & Lệ Thu là cặp bài trùng song ca " trên đỉnh của đỉnh " : Tiếng sáo thiên thai, Giọt mưa trên lá, Nhìn những mùa thu đi- Như cánh vạc bay, Yêu em dài lâu, Sầu đông , Mây lang thang , Hoa soan bên thềm cũ. Anh Khoa - cũng là danh ca nhạc nhẹ thời hoàng kim, giọng vừa trầm, hơi khàn nhưng vẫn có sắc thái trong , đầy đặn đã chinh phục được giới trẻ HS, SV ...Riêng Lệ Thu sau ngày 30/ 4 có hát một thời gian . Chỉ cần 03 ca khúc Tự nguyện , Trên đỉnh Trường Sơn , Hà Nội niềm tin & hy vọng - đã chứng tỏ một danh ca Sài Gòn hát NHẠC ĐỎ cũng rất TRỨ DANH vậy. Anh Khoa ở lại lâu hơn. Anh nổi tiếng với Mặt trời bé con, Hương thầm, Điệp khúc tình yêu, Anh ở đầu sông em cuố sông , Thành phố trẻ ..và nhạc Anh , Mỹ.( đang sống ở Hungary cùng vợ ). Thái Hiền - cô gái bước vào tuổi ô mai với một loạt ca khúc : Tuổi ngọc Tuổi hồng, Tuổi thần tiên, Bình ca 1 ., Nằm vắt tay lên trán ,. Khi ấy , giọng cô ấy trong trẻo , hồn nhiên ( ngày nay dễ nhận ra cô trong các ca khúc đạo ca…). Tất nhiên theo thời gian , Thái Hiền hát ngày càng đằm thắm hơn. Ca khúc Tháng 6 trời mưa , ở hải ngoại , Thái Hiền đã ghi âm và rất được người nghe đón nhận, khen ngợi. Julie Quang là nữ ca sĩ - " bà xã " cũ của Duy Quang. Bài hát Bài thơ vu quy, Ngày tân hôn, giới trẻ thời đó cũng rất hâm mộ. Và , cố danh ca Duy Quang có lẽ không cần nói nhiều . Trước 75, anh với ngoại hình rất thư sinh hát các ca khúc của " bố Phạm Duy , ca khúc ngoại lời dịch . Thành công trong nghề . Duy Quang còn song ca ăn ý với Thanh Lan, Ngọc Lan , Julie Quang, Hương Lan....nữa. Khoảng gần cuối thạp niên 70 , trước khi xuất cảnh , Duy Quang đã ôm đàn và hát Tiếng hát từ thành phố mang tên Người ( Cao Việt Bách ) - đúng dịp lễ hội để tạm biệt khán giả. |
|||
dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này: baothai (13-04-2018 05:12 AM) |
10-06-2018, 06:48 AM
Bài viết: #47
|
|||
|
|||
RE: PPS NHẠC> NHẠC MÙA THU & NHẠC KHÁC
MỜI NGHE XM PPS NHẠC* ĐỢI CHỜ* (ảnh đen trắng qua sử lý theo ý nên hơi tối nhé,dq)
DQ - ĐỢI CHỜ.ppsx (Kích cỡ: 4.87 MB / Tải về: 360) ĐỢI CHỜ - Lời và nhạc: Trần Nhật Bằng & Phạm Đình Chương Trăng lắng sâu vào đêm đợi chờ. Đêm thế gian quạnh cô mịt mờ. Như ném ai vào cõi bơ vơ . Nhưng vẫn chưa tìm thấy người mơ. Ta đi ngóng trông em, trong (bóng) đêm dài ... than. Ngàn tơ vàng chìm lắng, mơ dáng ai về, trong ánh trăng vàng. Như gió đi tìm hương, như chim nhớ mùa, khát khao tình xưa. Ta níu xin thời gian, đừng cho phai úa, kiếp duyên tình mộng mơ. Ta thiếp đi vì vui tàn rồi. Bên khúc sông lạnh riêng mình ngồi. Ôm bó hoa đọng ngát hương môi. Xa vắng cho lòng nhớ xa xôi! TIỂU SỬ • Tên thật: Trần Nhật Bằng. Sinh năm 1930 tại Hà Nội. Mất ngày 7 tháng 5, 2004 tại Fairfax, Virginia, Hoa Kỳ. • Học nhạc từ 7 tuổi tại một trường Nhà Dòng, học hòa âm cùng với Ðỗ Thế Phiệt (em họ, nguyên Giám Đốc Trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn) • SÁNG TÁC: trên 100 ca khúc. (Tác phẩm đầu tiên: “Đợi Chờ” còn có tên là "Hoa Trăng" - 1947) • HÒA ÂM: Soạn cho nhiều ban nhạc (Ðài Phát Thanh: Quân Đội, Tự Do, Ðài Truyền Hình Việt Nam) và các hãng sản xuất nhạc tại Hà Nội và Sài Gòn. • TRÌNH DIễN: - Với các ban nhạc Ðài Phát Thanh Hà Nội và Sài Gòn (các ban Hoàng Trọng, Nghiêm Phú Phi, Thăng Long, Văn Phụng, Nhật Bằng, Tiếng Hát Tâm Tình (Anh Ngọc), Nguyễn Ðình Toàn, Vũ Thành, Ðào Trường Phúc …) - Tại vũ trường và các nhạc hội: Hà Nội (1952: Ban Gió Nam, Thăng Long) và Hoa Kỳ (1991: Houston; 1993-94: San Jose) • DẠY NHẠC: Lớp “Luyện Ca Sĩ” (1996: Hoa Kỳ) • THÀNH LẬP: - Ban Hợp ca Hạc Thành (Sài Gòn 1954 với 4 anh em Nhật Bằng, Nhật Phượng,Thể Tần, Hồng Hảo) - Ban Do-Si-La (Sài Gòn 1963 với Anh Ngọc, Văn Phụng) - Ban The Blue Ocean (Washington DC 1990 cho 3 con Nhật Hải, Nhật Hùng, Nhật Huấn) • SỞ TRƯỜNG: Ngoài hát và soạn hòa âm còn sử dụng tây ban cầm, dương cầm, contrebasse • HOẠT ÐỘNG: - Trước 1951: - Sinh viên Trường Bưởi và Trường Ðào Duy Từ ( Hà Nội) - Nhạc sĩ Ðài Phát Thanh và phòng trà (Hà Nôi) - 1956-75: Ðài Phát Thanh Quân Ðội Sài Gòn - 1990: Định cư tại Hoa Kỳ - 1996: Mở lớp “Luyện Ca Sĩ” và soạn hòa âm tại Fairfax, Virginia Ánh Sáng Ðồng Quê Ánh Sáng Miền Nam (Xuân Lôi & Nhật Bằng) Anh Về Một Mùa Trăng Bóng Chiều Tà Bóng Người Chiến Sĩ Bóng Quê Xưa (Đan Thọ & Nhật Bằng) Chiều Nhớ Quê Chiến Sĩ Ca Chờ Anh Em Nhé (Xuân Tiên & Nhật Bằng) Cùng Một Mái Nhà (Xuân Tiên & Nhật Bằng) Dạ Tương Sầu Đàn Vui (Nhật Bằng & Thanh Nam) Đợi Chờ - tức Hoa Trăng (Nhật Bằng & Phạm Đình Chương) Hãy Hát Cùng Tôi (Nhật Bằng & Thanh Nam) Hãy Quên Đi Niềm Thương Nhớ Hãy Trả Lời Em (Trần Thiện Thanh & Đào Duy & Nhật Bằng) Hương Quê (Nhật Bằng & Huỳnh Hiếu) Khúc Nhạc Ngày Xuân Lỡ Làng Một Chiều Thu Mùa Ðông Tuyết Trắng Mùa Ly Biệt Mưa Đầu Mùa Nàng Tiên Trắng Ngày Tươi Sáng (Nguyễn Hiền & Nhật Bằng) Nhịp Sống Miền Nam Nếu Em Có Về Thăm Quê Cũ (thơ: Phạm Thế Trường) Nước Mắt Quê Hương Sài Gòn Nắng Nhớ Mưa Thương (thơ: Nguyễn Thị Ngọc Dung) Sau Lũy Tre Xanh Thu Ly Hương (Nhật Bằng & Đan Thọ) Thuyền Trăng (Nhật Bằng & Thanh Nam) Tiếng Đàn Trong Đêm Tình Nghệ Sĩ (Nhật Bằng & Thanh Nam) Tình Tuyệt Vọng (thơ: Hồng Thủy) Ước Mơ (thơ: Phan Khâm) Về Đây Anh (Nhật Bằng & Nguyễn Hiền) Về Làng Cũ (Xuân Lôi & Nhật Bằng) Vọng Cố Ðô (Đan Thọ & Nhật Bằng) Xin Em Đừng Hỏi (Trần Thiện Thanh & Đào Duy & Nhật Bằng) Ý Nhạc Ngày Xanh (Nhật Bằng & Thanh Nam) Phạm Đình Chương (1929 – 1991) là một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc Việt từ 1950 trở đi. Riêng về lãnh vực sáng tác, ông được coi một tên tuổi lớn của tân nhạc Việt Nam. Ngoài ra ông còn là một ca sĩ của ban hợp ca Thăng Long với biệt hiệu là Hoài Bắc. Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc, cả hai thân sinh ra ông đều chơi nhạc cổ truyền. Thân phụ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh. Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV. Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 18 tuổi, với tác phẩm đầu tay là ca khúc Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng. Năm 1951 ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng ông thành lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Trong thập niên 50, ông đã viết những tác phẩm thành công và để đời như Ly Rượu Mừng, Xuân Tha Hương, Thủa Ban Đầu, Tiếng Dân Chài v.v.. Đáng kể nhất là trường ca bất hủ Hội Trùng Dương mà ông viết về đất nước Việt Nam hoa gấm, qua ba bài ca nói về sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Theo như lời ông đã nói với gia đình, trường ca này đã phải tốn mất 4 năm để hoàn tất. Một sáng tác lãng mạn và để đời thứ hai trong thập niên 50 đã gắn liền vào tên tuổi Phạm Đình Chương, đó là ca khúc bất hủ phổ thơ Đinh Hùng nhan đề Mộng Dưới Hoa. Riêng nói về Mộng Dưới Hoa, ca khúc này đã theo năm tháng để trở thành một trong những bài tình ca được ưa chuộng và hát nhiều nhất của nhạc Việt. Qua khía cạnh chuyên môn, nhất là về lãnh vực nhạc phổ từ thơ, ta cứ đọc phần phê bình và ca ngợi của nhạc sĩ Vũ Thành sau đây. Nhạc sĩ Vũ Thành viết: " Tác phẩm thành công nhất của Phạm Đình Chương, theo tôi, là Mộng Dưới Hoa, thơ Đinh Hùng phổ nhạc. Nét đặc thù của tác phẩm này là hơi nhạc tuy rất Việt Nam, mà lại được viết theo âm giai tây phương, chứ không cần đến ngũ cung như hầu hết các sáng tác có âm hưởng thuần túy Việt Nam khác. Ngoài ra, Mộng Dưới Hoa còn đặc biệt ở điểm rất cân đối và được cấu tạo như cung cách một bản nhạc “mẫu” trong các sách giáo khoa về sáng tác. Mộng Dưới Hoa còn đáng được coi là một kỳ công vì phổ nhạc vào thơ Việt Nam là một việc cực khó. Người phổ nhạc chẳng những phải lệ thuộc vào số chữ mà còn phải lựa cung bậc cho đúng luật bằng trắc của bài thơ, không như trường hợp phổ nhạc thơ Pháp hay thơ Anh, chỉ cần theo đúng số chữ mà thôi. Vì vậy, thường thường các bài thơ Việt Nam được phổ nhạc đều viết theo thể tự do, không gò bó, thì mới theo sát được [âm] bằng trắc của từng chữ. Làm theo thể mẫu hết sức cân đối mà vẫn giữ đúng được bằng trắc của từng chữ, ta phải ngả nón trước Phạm Đình Chương.” Trong thập niên 60, ông đã sáng tác một loạt ca khúc phổ thơ rất thành công và được yêu chuộng như Nửa Hồn Thương Đau, Ngợi Ca Tình Yêu và Đêm Màu Hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền), Khi Cuộc Tình Đã Chết (Du Tử Lê), Người Đi Qua Đời Tôi (Trần Dạ Từ) và nổi bật nhất là ca khúc Đôi Mắt Người Sơn Tây (Quang Dũng). Từ đó, Phạm Đình Chương thường được cho là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Giai đoạn này cũng là lúc ông lập ra phòng trà tên gọi Đêm Màu Hồng và với ban hợp ca Thăng Long, đã biến nơi này thành chỗ hội tụ của các văn nghệ sĩ đương thời. Sau biến cố 1975, Phạm Đình Chương vượt biên sang định cư tại California, Hoa Kỳ vào năm 1979. Ông định cư tại quận Cam cùng gia đình từ đó. Tại khoảng thời gian sống tại Hoa Kỳ, ông đã viết một số ca khúc cuối cùng, gồm những tác phẩm phổ thơ như Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn, Quê Hương Là Người Đó, Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển (phổ thơ Du Tử Lê), Hạt Bụi Nào Bay Qua (Thái Tú Hạp) v.v.. Ngoài ra, ông đã hoạt động rất thành công qua những buổi trình diễn tại các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới. Vào mùa hè năm 1991, ông lâm bệnh và qua đời vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại quận Cam, California, hưởng dương được 62 tuổi. Theo như gia đình ông kể lại, sau khi người anh của ông là nghệ sĩ lão thành Hoài Trung qua đời tám năm sau đó, vào một buổi sáng nắng ấm năm 1998 tại miền nam Cali, gia đình ông đã đem cốt của hai ông và rải ngoài biển, như trong một ca khúc ông viết trong thời gian cuối cùng, nhan đề “Khi Tôi Chết, Hãy Đem Tôi Ra Biển”, phổ từ thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Sáng Tác Danh sách các tác phẩm do nhạc sĩ Phạm Đình Chương viết gồm có: 1 – Anh đi chiến dịch (1962) - Hoàng Oanh Ban Thăng Long Bích Vân Thanh Tuyền 2 – Bài ca tuổi trẻ (1950) - Ban Thăng Long 3 – Bài ngợi ca tình yêu (thơ Thanh Tâm Tuyền) - Hoài Bắc & Phạm Thành Thái Thanh 4 – Bên trời phiêu lãng (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) - Quỳnh Lan 5 – Buồn đêm mưa (thơ Huy Cận) - Ban Thăng Long 6 – Cho một thành phố mất tên (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) - Mai Hương 7 – Dạ tâm khúc (thơ Thanh Tâm Tuyền) - Duy Trác 8 – Đất lành - Ban Thăng Long 9 – Đêm cuối cùng - Thái Thanh Tuấn Ngọc Thùy Dương 10 – Đêm màu hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền) - Kim Tước Sĩ Phú Bích Vân 11 – Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê) - Tâm Hảo Trần Thái Hòa 12 – Đến trường 13 – Định mệnh buồn - Phạm Thành 14 – Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng) - Phạm Đình Chương hát: MP3 Youtube Phạm Đình Chương hát với Phạm Thành 15 – Đón xuân - Như Quỳnh 16 – Đợi chờ (viết với Nhật Bằng) - Vũ Khanh Lệ Thu 17 – Được mùa - Kim Tước-Mai Hương-Quỳnh Giao Thanh Thúy 18 – Hạt bụi nào bay qua (thơ Thái Tú Hạp) - Phạm Thành 19 – Heo may tình cũ (thơ Cao Tiêu) - Thái Thanh 20 – Hò leo núi - Ban Thăng Long 21 – Trường ca Hội Trùng Dương - Ban Thăng Long 22 – Khi cuộc tình đã chết (thơ Du Tử Lê) - Vũ Khanh Lệ Thu 23 – Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển (thơ Du Tử Lê) - Lê Hồng Quang 24 – Khúc giao duyên - Duy Khánh & Thái Thanh 25 – Kiếp Cuội già 26 – Lá thư mùa xuân - Anh Khoa 27 – Lá thư người chiến sĩ - Bích Liên 28 – Ly rượu mừng - Ban Thăng Long 29 – Mắt buồn (thơ Lưu Trọng Lư) - Julie 30 – Mầu kỷ niệm (ý thơ Nguyên Sa) - Vũ Khanh Xuân Thu & Duy Khánh Thái Hiền 31 – Mỗi độ xuân về - Teresa Mai 32 – Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng) - Nguyên Khang Anh Ngoc & Mai Hương Vũ Khanh Nhạc hòa tấu saxo 33 – Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn) - Ban Thăng Long Mai Hương Ái Vân & Hương Lan Jo Marcel & Lệ Thu Kim Tước, Quỳnh Giao, Mai Hương (youtube) 34 – Mười thương - Thái Thảo 35 – Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ) - Ngọc Lan Trần Thái Hòa 36 – Nhớ bạn tri âm 37 – Nửa hồn thương đau (ý thơ Thanh Tâm Tuyền) - Thái Thanh Ngọc Lan Tuấn Ngọc 38 – Quê hương là người đó (thơ Du Tử Lê) - Mai Hương & Phạm Thành Ý Lan 39 – Ra đi khi trời vừa sáng (lời Phạm Duy) - Ban Thăng Long 40 – Sáng rừng - Đức Tuấn 41 – Ta ở trời tây (thơ Kim Tuấn) - Elvis Phương Bích Vân 42 – Thằng Cuội 43 – Thuở ban đầu - Duy Trác Ý Lan Quang Tuấn Quỳnh Giao 44 – Tiếng dân chài - Ban Thăng Long 45 – Trăng Mường Luông 46 – Trăng rừng 47 – Xóm đêm - Quang Dũng Thanh Thúy Nhạc hòa tấu1 Nhạc hòa tấu2 48 – Xuân tha hương - Mai Hương NGUỒN từ website: phamdinhchuong.com |
|||
15-08-2018, 10:38 PM
Bài viết: #48
|
|||
|
|||
RE: PPS NHẠC> NHẠC MÙA THU & NHẠC KHÁC
MỜI NGHE QUA PPS * MẸ TÔI * nhạc Trần Tiến.
DQ- MẸ TÔI.ppsx (Kích cỡ: 7.31 MB / Tải về: 281) lời bài hát sau đây: Mẹ ơi con đã già rồi con ngồi nhớ mẹ khóc như trẻ con Mẹ ơi con đã già rồi con ngồi ngớ ngẩn nhớ ngôi nhà xưa Ngày xưa cha ngồi uống rượu, mẹ ngồi đan áo. Ngoài kia, mùa Đông cây bàng lá đổ. Ngày xưa chị hát vu vơ những câu ca cổ cho em nằm mơ Ngày xưa mẹ đắp cho con tấm khăn quàng cổ ấm hơi mẹ tôi Ngày xưa bên giường cha nằm mẹ ngồi xa vắng. Nhìn cha, thương cha chí lớn không thành. Biển sóng thét gào một ngày nhớ mẹ sóng trào khơi xa Trời gió mây ngàn một ngày khóc mẹ trăng tàn sao rơi Mẹ ơi! Thế giới mênh mông, mênh mông không bằng nhà mình. Tuổi thơ như chiếc gối êm, êm cho tuổi già úp mặt. Trèo lên dãy núi thiên thai ối a mẹ ngồi trông áng mây vàng Mẹ ơi! Hãy dắt con theo ối a để con mãi mãi bên mẹ. Mẹ ơi! Thế giới mênh mông, mênh mông không bằng nhà mình. Dù cho phú quý vinh quang, vinh quang không bằng có mẹ. Trèo lên dãy núi thiên thai ối a mẹ tôi về đâu? Ngàn năm mây trắng bay theo ối a mẹ ơi mẹ về đâu? |
|||
15-08-2019, 03:36 AM
Bài viết: #49
|
|||
|
|||
RE: PPS NHẠC> NHẠC MÙA THU & NHẠC KHÁC
Tình cờ nghe một bài nhạc phổ thơ khá buồnmà đa số các trang web lại dùng lời nhạc cho đó là lời bài thơ. Đây cũng là ngộ nhận như cây Sala và hoa Đầu lân Balltree (cây hoa trồng trong chùa Phật ).Bài thơ *Thoáng Hương Qua* của nhà thơ, cư sĩ Phạm thiên Thư được Phạm Duy phổ nhạc Với tựa *Em Đi Lễ Chùa Này*
Mời nghe xem dqg -THOÁNG HƯƠNG QUA.ppsx (Kích cỡ: 9.67 MB / Tải về: 197) THOÁNG HƯƠNG QUA Ðầu xuân em lễ chùa này Có búp lan vàng khép nép Vườn trong thoáng làn hương bay Bãi sông lạc con bướm đẹp Vào hạ em lễ chùa này Trên đồi trái mơ ửng chín Lò hương có làn trầm bay Vờn trên bờ tóc bịn rịn Giữa thu em lễ chùa này Lầu chuông có con chim hót Tiếng ca theo làn gió may Lá vàng sương gieo nhẹ hạt Sang đông em lễ chùa này Ngoài sân có mưa bụi bay Hắt hiu trong cành gió bấc Vườn chùa rụng cánh lan gầy Cuối đông đưa em tới đây Trong lòng áo quan gỗ trắng Tóc em tợ óng làn mây Cội hoa tưởng ai trầm lặng Em vừa nằm xuống đất này Vườn trong có bông đào nở Con bướm chập chờn hương bay Quơ sợi râu vàng bỡ ngỡ Nắm đất nào vừa lấp mộ Có con chim hót đầu cành Tiếng tan trên giòng suối xanh Nước ơi sao buồn nức nở Bây giờ tôi biết em đâu Cuối vườn nụ mai nhiệm mầu Vừa thoát làn hương trinh bạch Em ơi ! Mây đã qua cầu Phạm Thiên Thư Theo lời Phạm Duy, về ca khúc Em Lễ Chùa Này thì : “Khi Phạm Thiên Thư đưa thêm thơ cho tôi phổ nhạc thì tôi chọn bài Em Lễ Chùa Này vì cả hai chúng tôi đều muốn quay về xưng tụng những gì thuộc về văn minh Việt Nam, như ngôi chùa cổ ở miền Bắc là nơi lúc còn nhỏ tôi thấy đôi kẻ tình nhân thường hẹn nhau tới dâng hương cầu nguyện…” Đây chỉ là cảm nhận riêng của người nhạc sĩ chớ thật ra đọc trên nguyên tác bài thơ ta sẽ thấy cái “tình” kia ảo diệu hơn nhiều. Phạm Thiên Thư là một nhà thơ-tu sĩ, tình của ông là tình của người đứng xa ngắm nhìn và cảm nhận. Phạm Duy là một nhạc sĩ-người tình nên dĩ nhiên tình của ông là tình của người trong cuộc, cũng như nhan đề bài thơ chỉ là Thoáng Hương Qua chớ không cụ thể như Em Lễ Chùa Này như tên ca khúc. Bài thơ Thoáng Hương Qua được viết theo thể loại thơ 6 chữ, khi chuyển thành ca khúc Phạm Duy viết lại theo thể loại thơ 7 chữ, tuy nhiên phần ý nghĩa nội dung vẫn không ra ngoài nguyên tác. Cả bài thơ và nhạc đều có 8 khổ, có thể tạm chia thành mấy khúc như sau: – Khúc 1: khổ thơ đầu, thể hiện ở cung La trưởng, nhịp 3/4 chậm vừa: Thơ: Ðầu xuân em lễ chùa này Có búp lan vàng khép nép Vườn trong thoáng làn hương bay Bãi sông lạc con bướm đẹp Nhạc: Đầu Mùa Xuân cùng em đi lễ Lễ chùa này vườn nắng tung bay Và ngàn lau vàng màu khép nép Bãi sông bay một con bướm đẹp – Khúc 2: khổ thơ 2, giai điệu như khúc 1: Thơ: Vào hạ em lễ chùa này Trên đồi trái mơ ửng chín Lò hương có làn trầm bay Vờn trên bờ tóc bịn rịn Nhạc: Mùa Hạ qua cùng em đi lễ Trái mơ ngon đồi gió mơn man Từ lò hương làn trầm nghi ngút Khói hương thơm bờ tóc em vờn – Khúc 3: khổ thơ 3, chuyển sang cung Rê trưởng, nâng cao độ của nốt nhạc để tạo hiệu ứng âm thanh mới: Thơ: Giữa thu em lễ chùa này Lầu chuông có con chim hót Tiếng ca theo làn gió may Lá vàng sương gieo nhẹ hạt Nhạc: Rồi Mùa Thu cùng em đi lễ Có con chim đậu dưới gác chuông Hòa lời ca vào làn sương sớm Gió heo may rụng hết lá vàng Khúc 4: khổ thơ 4, trở lại như khúc 1 và 2: Thơ: Sang đông em lễ chùa này Ngoài sân có mưa bụi bay Hắt hiu trong cành gió bấc Vườn chùa rụng cánh lan gầy Nhạc: Vào mùa đông cùng em đi lễ Lễ chùa này một thoáng mưa bay Và ngoài sân vài cành khô gẫy Gió lung lay một cánh lan gầy Về mặt lý thuyết âm nhạc thì đến đây đã hoàn chỉnh bố cục của một ca khúc theo cấu trúc Đk1 – Đk2 – Pk – Đk3. Tuy nhiên ở bài thơ này, 4 khổ thơ đầu chỉ mới là điệp khúc để dẫn tới hiệu ứng ở hai khổ thơ tiếp theo (hiệu ứng này ở Việt Nam hay gọi là “cao trào”) – Khúc 5: hai khổ thơ 5 và 6, chuyển sang cung La thứ, nhịp chậm lại để tạo âm hưởng thiết tha, tiếc nuối: Thơ: Cuối đông đưa em tới đây Trong lòng áo quan gỗ trắng Tóc em tợ óng làn mây Cội hoa tưởng ai trầm lặng Em vừa nằm xuống đất này Vườn trong có bông đào nở Con bướm chập chờn hương bay Quơ sợi râu vàng bỡ ngỡ Nhạc: Tàn mùa đông vào chùa bỡ ngỡ Tiễn đưa em trong áo quan này Từng cội hoa trầm lặng thương nhớ Tóc em xưa tơ óng như mây Vườn chùa đây vào nằm trong đất Nép bên hoa ôi những hoa vàng Vườn đào thơm chập chờn cánh bướm Bướm khua râu ngơ ngác bay ngang – Khúc 6: hai khổ thơ cuối, trở lại tiết tấu như ban đầu, để kết: Thơ: Nắm đất nào vừa lấp mộ Có con chim hót đầu cành Tiếng tan trên giòng suối xanh Nước ơi sao buồn nức nở Bây giờ tôi biết em đâu Cuối vườn nụ mai nhiệm mầu Vừa thoát làn hương trinh bạch Em ơi ! Mây đã qua cầu… Nhạc: Mộ của em, mộ vừa mới lấp Có con chim nào hót trên cây Lời của chim chìm vào tiếng suối Suối xanh lơ buồn khóc ai hoài Rồi từ đây vườn chùa thanh vắng Đến thăm em ngày tháng qua mau Một nụ mai vừa nở trong nắng Hỡi em ơi mây đã qua cầu… Nhưđề cập, cả hai bài thơ và nhạc đều hay, và nhờ có nhạc mà bài thơ đi vào lòng người sâu rộng hơn. Tuy nhiên, vẫn có thể nhận ra ca khúc Em Lễ Chùa Này mang tính đời thường nhiều hơn, còn bài thơ Thoáng Hương Qua cứ giống như một lửng lơ thanh thoát. |
|||
04-09-2019, 09:06 PM
(Được chỉnh sửa: 04-09-2019 09:11 PM bởi dieuquang.)
Bài viết: #50
|
|||
|
|||
RE: PPS NHẠC> NHẠC MÙA THU & NHẠC KHÁC
PHẠM THIÊN THƯ
Bài thơ “Động Hoa Vàng” là một trong những thi phẩm nổi tiếng nhất trong cõi thơ Phạm Thiên Thư. Xuất hiện khoảng đầu thập niên 70 ở miền Nam, bài lục bát 400 câu này là một câu chuyện tình yêu trong sáng, cao khiết không nhuốm màu tục lụy. Tựa một viên ngọc lung linh huyền ảo, nó dẫn người đọc tìm về một thế giới tịch lặng, đơn sơ đẫm hương Thiền. Nơi ấy con người có thể tìm được con đường nuôi dưỡng chân tâm hầu mong một cuộc sống bình an, thanh thản. Hẳn không mấy khó khăn để nhận ra rằng văn hóa Thiền thấm đẫm trong từng câu, từng chữ và làm nên nét đẹp thâm trầm, ý nhị cho bài thơ. Từ câu chuyện “gã từ quan” coi thường danh lợi, chán ghét những thị phi, giành giật trong cõi đời mà tìm về nơi thông xanh suối biếc, nương náu chốn núi rừng, nhà thơ đưa ta đến không gian bát ngát của động hoa vàng. Từ Động Hoa Vàng, nhà thơ nói đến rất nhiều những hình ảnh thuộc về không gian. Đó là: miền tuyết thơm, suối tơ huyền, suối hoa rừng, cội thu xanh, đồi dạ lan, miền cỏ hoa, bến hoa tươi, đường lặng im, non xanh, thềm trăng, lưng núi phượng… Tất cả những hình ảnh sang trọng, thanh thoát mà đơn sơ ấy thuộc về một không gian thoát tục. Không ồn ào náo động, không phù phiếm lòe loẹt, tất cả ở trong một trạng thái vắng lặng, thanh bình, nhẹ nhàng, trong sáng, trầm mặc. Có đến 38 lần Phạm Thiên Thư nhắc đến động hoa, thảm hoa, giàn hoa… 15 lần nhắc đến trăng và 32 lần sử dụng hình ảnh cánh chim, tiếng chim trong bài thơ. Trăng, hoa và tiếng chim, hương hoa thoang thoảng, ánh trăng nhẹ nhàng, tiếng chim trong vắt làm cho không gian trở nên tịch lặng, linh thiêng, thấm đẫm thiền vị. Đó là nơi con người có thể lắng lòng lại, thả hồn vào cõi thinh không để tìm sự bình an, thanh thản.Và có đến 13 lần Phạm Thiên thư nói đến mùa xuân trong bài thơ, cũng có nghĩa là thời gian bài thơ chủ yếu xoay quanh mùa khởi đầu cho một năm, mùa của hạnh phúc và niềm vui. Đó là mùa xuân ở Động Hoa Vàng, nơi con người sống giữa thiên nhiên để tâm hồn thanh tịnh. Thiền tông quan niệm bậc trí giả khi đã đạt Đạo, hiểu được lẽ vận hành của tạo vật, thoát khỏi tham, sân, si thì tâm hồn sẽ đạt đến cảnh giới của mùa xuân an lạc, không còn buồn khổ sầu lo. Mùa xuân trong “Động Hoa Vàng” cũng là một mùa xuân như thế. Nó không chỉ là mùa xuân của ngoại giới mà còn là mùa xuân của tâm tưởng khi con người đã từ bỏ tất cả những giành giật, đua chen mà tìm tới cõi tịch diệt của Thiền tông. Bài thơ tình này là của một nhà sư có pháp danh Tuệ Không , tu tại Thiền viện Pháp Vân 1964-1975, Sài Gòn. Cùng thời điểm này, hay trước đó, tu sĩ Tuệ Không đã chuyển ngữ Kinh Phật Kim Cương ra thơ Việt, dưới tên Qua suối mây hồng, xuất bản 1971, kèm theo hai tùy bút văn xuôi, Ngã pháp mây nổi và Hiện hóa pháp, viết 1969, giúp ta hiểu thêm tâm tưởng Phạm Thiên Thư, hơn là những bài thơ đôi khi trầm bổng qua vần điệu. ĐỘNG HOA VÀNG 1 Mười con nhạn trắng về tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm 2 Xe lên bụi quán hoa đường Qua sương trắng dậm phố phường úa thu Tiếng chim ướt sũng hai mùa Hạt rơi thêm lạnh hững hờ mây qua 3 Dế buồn dỗ giấc mù sa Âm nao lãng đãng tơ ngà sương bay Người về sao nở trên tay Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót mơ 4 Con khuyên nó hót trên bờ Em thay áo tím thờ ơ giang đầu Tưởng xưa có kẻ trên lầu Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa 5 Tóc dài cuối nội mây xa Vàng con bướm nhuỵ lẫn tà huy bay Dùng dằng tay lại cầm tay Trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa 6 Từ chim thuở núi xa xưa Về đây rớt lại hạt mơ cuối rừng Từ em khép nép hài xanh Về qua dục nở hồn anh đoá sầu 7 Ừ thì mình ngại mưa mau Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi Sông này chảy một dòng thôi Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông 8 Ngày xưa em chửa theo chồng Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi Mùa thu áo biếc da trời Sang đông em lại đổi dời áo hoa 9 Đường về hái nụ mù sa Đưa theo dài một nương cà tím thôi Thôi thì em chẳng yêu tôi Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng 10 Sao em bước nhỏ ngập ngừng Bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ Đêm về thắp nến làm thơ Tiếng chân còn vọng nửa tờ thơ tôi 11 Đôi uyên ương trắng bay rồi Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha 12 Con chim chết dưới cội hoa Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao Mai anh chết dưới cội đào Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu 13 Tường thành cũ phiến bia xưa Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay Chiều xanh vòng ngọc trao tay Tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha 14 Đêm dài ươm ngát nhuỵ hoa Chim kêu cửa mộ trăng tà gõ bia Em ơi rủ tóc mây về Nhìn trăng nỡ để lời thề gió bay 15 Đợi nhau tàn cuộc hoa này Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ Tìm trang lệ ố hàng thơ Chữ xưa quyên dục bây giờ chim di 16 Mây xưa cũng bỏ non về Em xưa cũng giã câu thề đó đây Nhớ đành biết mấy tầm tay Lông chim biển bắc hoa gầy bãi đông 17 Đợi ai trăng rõi hoa buồn Vắng em từ thuở theo buồm gió xuôi Chiều chiều mở cổng mây trôi Chênh vênh núi biếc mắt ngời sao hôm 18 Thế thôi phố bụi xe hồng Hồ ngăn ngắt đục đôi dòng nhạn bay Đưa nhau đấu rượu hoa này Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm 19 Xuống non nhớ suối hoa rừng Vào non nhớ kẻ lưng chừng phố mây Về thành nhớ cánh chim bay Xa thành thương vóc em gầy rạc hoa 20 Hạc xưa về khép cánh tà Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần Em về hong tóc mùa xuân Trăng trầm hương toả dưới chân một vành 21 Em nằm ngó cội thu xanh Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi Về em vàng phố mây trời Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân 22 Thì thôi tóc ấy phù vân Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương Thì thôi mù phố xe đường Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi 23 Gầy em vóc cỏ mây dời Tay em mai nở chân trời tuyết pha Ngày dài ngựa soải cầm ca Trán cao ngần nửa trăng tà ngậm sương 24 Xe lăn bánh nhỏ bụi hường Lao xao vó rụng trên đường phố mây Mưa giăng ráng đỏ hao gầy Đôi con ngựa bạch ném dài tuyết sa 25 Chim nào hát giữa thôn hoa Tay nào hong giữa chiều tà tóc bay Lụa nào phơi nắng sông tây Áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông 26 Con chim mùa nọ chưa chồng Cũng bay rời rã trong dòng xuân thu Từ em giặt áo đông tơ Nay nghe lòng suối hững hờ còn ngâm 27 Thuyền ai buông lái đêm rằm Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào Cửa sương nhẹ mở âm vào Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm ca 28 Lên non cuốc sỏi trồng hoa Xuôi thuyền lá trúc la đà câu sương Vớt con cá nhỏ lòng đòng Mải vui lại thả xuống dòng suối tơ 29 Vào non soi nguyệt tầm rùa Đọc trên mai nhỏ xanh tờ lạc thư Thả rùa lại đứng ưu tư Muốn qua hang động sống như nguyệt rùa 30 Em nghiêng nón hạ cầu mưa Sông ngâm mây trắng nước chưa buồn về Hoa sầu cỏ cũng sầu chia Lơ thơ xanh tụ đầm đìa vàng pha 31 Đất nam có lão trồng hoa Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông Lại đem bầu ngọc ra trồng Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân 32 Người vui ngựa chợ xe thành Ta leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi Theo chân chim gặp mây trời Lại qua khói động hỏi người tu non 33 Bông hoa trắng rụng bên đường Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng Con ong nhỏ mới ra giàng Cũng nghiêng đôi cánh nhuỵ vàng rụng rơi 34 Mùa xuân bỏ vào suối chơi Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa Múc bình nước mát về qua Ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa 35 Chim từ bỏ động hoa thưa Người từ tóc biếc đôi bờ hạ đông Lên non kiếm hạt tơ hồng Đập ra chợt thấy đôi dòng hạc bay 36 Người về đỉnh núi sương tây Ta riêng nằm lại đợi ngày mướp hoa Bến nam có phố giang hà Nghiêng nghiêng nậm ngọc dốc tà huy say 37 Tình cờ anh gặp nàng đây Chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương Qua sông có kẻ chợt buồn Ngó hoa vàng rụng bên đường chớm thu 38 Mốt mai em nhớ bao giờ Bãi dâu vãn mộ cho dù sắc không Chân chim nào đậu bên cồn Ngựa xuôi có kẻ lại buồn dấu chim 39 Đợi người cuộc mộng thâu đêm Sông Ngân trở lệ dài thêm dòng nhoà Anh nằm gối cỏ chờ hoa Áo em bạch hạc la đà thái hư 40 Em từ rửa mặt chân như Nghiêng soi hạt nước mời hư không về Thâu hương hiện kính bồ đề Phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi 41 Ta về rũ áo mây trôi Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan Rằng xưa có gã từ quan Lên non tìm động hoa vàng ngủ say 42 Ngựa xưa qua ải sương này Còn nghe nhạn lạc kêu hoài bãi sông Nước xuôi gờn gợn mây hồng Tiếng ca lạnh thấu hoàng hôn giục đò 43 Hoa đào tưởng bóng đào xưa Thuyền sang bến nọ dòng mờ khói vơi Hoa dương vàng nhạt sầu người Ta về uống nước sông khuây khoả lòng 44 Đưa nhau đổ chén rượu hồng Mai sau em có theo chồng đất xa Qua đò gõ nhịp chèo ca Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say 45 Khăn trăng từ độ trao tay Nửa tan cát suối nửa mài nghiên sương Mốt mai lòng có nghe buồn Mảnh trăng hiện hoá thiên đường cõi chơi 46 Nhện cheo leo mắc tơ trời Dòng chim qua hỏi mộ người tà dương Đánh rơi hạt mận bên đường Xuân sau mọc giữa chân thường cội hoa 47 Nụ vàng hương rộ tháng ba Nửa đêm dậy ngó trăng tà tiêu tương Chẳng như cội liễu bờ dương Tóc xanh mướt giữa vô thường sắc không 48 Mai nào thơm ngát thu đông Lược em chải rụng đôi dòng tơ xanh Đôi chim hồng yến trên cành Ngẩn ngơ quên rỉa lông mình điểm trang 49 Mùa xuân mặc lá trên ngàn Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư Động nam hoa có thiền sư Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn 50 Nến khuya lửa hắt hiu vàng Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa Ý nào hoá hiện ngàn hoa Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni 51 Dỗ non suối giọng thầm thì Độ tam thế mộng xá gì vóc hoa Ni cô hiện giữa ta bà Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng 52 Tiếng chim trong cõi vô cùng Nở ra bát ngát trên rừng quế hương Tiếng em hát giữa giáo đường Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng 53 Đố ai nhớ hết hoa vàng Đố ai uống cạn sương tàng trăng thâu Đố ai tát cạn mạch sầu Thì ta để tóc lên cầu đón ai 54 Em về sương đẫm hai vai Dấu chân là cánh lan dài nở đêm Từ em hé nụ cười huyền Mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa 55 Guốc mòn lẫn tiếng sơn ca Sư về chống gậy trúc qua cầu này Ngó bờ suối lạnh hoa bay Thương sao giòng nước trôi hoài thiên thanh 56 Có con cá mại cờ xanh Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân Nửa dòng cá gặp phù vân Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi 57 Dù mai lều cỏ chân trời Khơi hương lò cũ khóc người trong thơ Em còn ửng má đào tơ Tóc xưa dù có bây giờ sương bay 58 Lên non ngắt đoá hoa này Soi nghiêng đáy suối bóng ai nhạt nhoà Nom hoài chẳng rõ là ta Tắm xong khoác áo hát ca về làng 59 Tay đeo vòng ngọc xênh xang Áo em bay giải tơ vàng thiết tha Bước chân tìm chán ta bà Ngừng đây nó hỏi: đâu là vô minh 60 Hỏi con vạc đậu bờ kinh Cớ sao lận đận cái hình không hư Vạc rằng: thưa bác thiên thư Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ 61 Nước đi từ thủa bao giờ Dòng xuôi người đứng trên bờ ngó xuôi Chừng đâu dưới bến hoa tươi Buộc thuyền xưa đã có người ngó sông 62 Từ hôm em bỏ theo chồng Áo trắng em cất áo hồng em mang Chiều nay giở lại bàng hoàng Mười năm áo cũ hoe vàng lệ xanh 63 Đôi chim nho nhỏ trên cành Giục nhau đan tổ cỏ xanh bên đường Nửa đời mây nước du phương Thiền sư ngắt cỏ cúng dường phật thân 64 Gò chiều ùn bụi sương lên Hỏi ra mới biết nơi yên cành vàng Bên mồ chồn cáo đùn hang Chim kêu như lảnh tiếng nàng ngân nga 65 Cuối xuân ta lại tìm qua Tiểu thư chi mộ thềm hoa dại tàn Sớm thu ta đánh đò sang Bên đường cỏ mộ lại vàng cúc hoa 66 Trúc thưa cổng gió ơ hờ Em ra tựa cửa nghĩ chưa lấy chồng Sông ơi xanh nhé một dòng Mùa xuân cắp rổ ra đồng vớt hoa 67 Đường dài xao xác chim ca Người còn khoác nón theo tà dương nao Ván cờ bày trắng bông đào Sao lên núi thẫm trăng vào chén không 68 Đồi thu vắt suối mây hồng Chim xanh lác đác ngược dòng hoa tiên Bấc sầu lửa lụn chờ em Lệ xưa ai đã đổ nên dầu này 69 Đón em như ngóng chim trời Bãi xuân sớm đậu chiều dời khói thu Em còn áo trắng ngày xưa Trong anh muôn thủa bao giờ lệ hoen 70 Khơi trầm thơm tụng kinh hiền Máu xuân mạch lạnh trong miền xương da Vườn chùa có nụ hàm ca Sương khuya: pháp bảo trăng tà: vô môn 71 Mai tươi cánh nở bên cồn Mưa bay lấm tấm cành hương trắng ngời Thu đông tàng ẩn kho trời Hạt rơi rụng ngọc cánh rời rã hoa 72 Cổng làng mở cánh sao sa Nhã lan loáng thoáng tiếng gà xóm mai Lên chùa dâng dĩa hoa nhài Chợt viền trăng lạnh trên hài tổ sư 73 Chuông ngân chiều lặng trầm tư Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng Điệu về tay giấu chùm bông Gót chân đất phật trổ hồng hằng sa 74 Bóng trăng tịch mặc hiên nhà Thành đàn nẩy hạt tỳ bà quyện hương Gió thu từ độ tha phương Về trên hốc gỗ bên đường lặng im 75 Áo em vạt tím ngàn sim Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ Yêu nhau từ độ bao giờ Gặp đây giả bộ hững hờ khói bay 76 Tình cờ như núi gặp mây Như sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao Tỉnh ra thì giấc chim bao Chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng 77 Cành sen lá chĩu sương trong Áo ni xám vạt trời hong buồn về Tay nào nghiêng nón thơ che Tay nào lần chuỗi bồ đề xanh xao 78 Đôi mày là phượng cất cao Đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ Tiếng nàng vỡ bạc thành thơ Tụng dòng kinh tuệ trên tờ khói mây 79 Tóc em rừng ngát hương say Tay em dài nụ hoa lay dáng ngà Mắt xanh bản nguyện di đà Bước trầm hương nhẹ lẫn tà dương chim 80 Mắt nàng ru chiếc nôi êm Ru hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời Em là hoa hiện dáng người Tôi là cánh bướm cung trời về say 81 Một đêm nằm ngủ trong mây Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời Cây bưởi trắng ngát hương đời Nụ là tay phật chỉ người qua sông 82 Non xanh khoác áo sương hồng Con chim điểm tuyết ngoài đồng vụt bay Tiếng kêu lạnh buốt lòng tay Ngón buông lại chợt tuôn đầy lòng hoa 83 Em bên cửa chuốt tay ngà Cội lan đông mặc nở qua mấy nhành Ngày em ướp áo hồ xanh Con uyên tha thiết trên cành gọi thu 84 Ni về khép cửa chùa tu Sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng Thu vương ngọn chổi đôi bông Thoảng dâng hương lạ bướm vòng cánh duyên 85 Sư lên chót đỉnh rừng thiền Trong tim chợt thắp một viền tà dương Ngón tay nở nụ đào hương Cầm nghiêng tịnh độ một phương diệu vời 86 Một dòng hoa nổi trên trời Một dòng hoa nở trong người trầm tư Cánh nào mở cõi không hư Phiến băng tuyết khảm một tờ kim cang 87 Thư em ướp nụ lan vàng Lời em gió núi chiên đàn thoảng xa Áo em phất cõi di đà Ngón chân em nở cánh hoa đại từ 88 Chênh vênh đầu trượng thiền sư Cửa non khép ải sương mù bóng ai Non xanh ướm hỏi trang đài Trăm năm còn lại dấu hài động hoa 89 Ngày xưa bên dậu vàng hoa Chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời Năm sau em bỏ đi rồi Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn 90 Trên nền gạch nẻ rêu phong Xưa phơi nhã điệu giờ hong đoá quì Trẻ đào bãi cỏ xanh rì Được thanh kiếm quỉ bao kỳ thu han 91 Non đem nhạn nhốt trong thành Cho sông chưa trở yếm xanh dưới cầu Người còn dệt lụa tằm dâu Đêm nghe mưa rụng thiên thâu ngoài giàn 92 Núi nghiêng suối vắt tơ đàn Nhìn ngoài thạch động mưa vàng lưa thưa Nghiêng bình trà nhớ hương xưa Từ vàng hoa nọ bây giờ vàng hoa 93 Sáng nghe lan rụng mái nhà Chừng như mưa nhẹ núi xa mùa này Đường về mù mịt ngàn mây Về nam đôi cánh chim bay xạc xào 94 Mây dù chẳng chất non cao Đường về dù chẳng sông đào nông sâu Đêm đêm lòng dục nẻo sầu Thềm trăng ngỡ tưởng hoa cau rụng thầm 95 Nhớ cha giọt lệ khôn cầm Dưới trăng lấp lánh như trâm vân quỳnh Nghiêng ly mình cạn bóng mình Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay 96 Gối tay nệm cỏ nằm say Gõ vào đá tụng một vài biển kinh Mai sau trời đất thái bình Về lưng núi phượng một mình cuồng ca 97 Gây giàn thiên lý vàng hoa Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây Xuống đầm tát cá xâu cây Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim 98 Khách xa nhớ đến nhau tìm Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà Hứng nước suối thết bình trà Hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn 99 Vào hang núi nhập niết bàn Tinh anh nở đoá hoa vàng cửa khe Mai sau thí chủ nào nghe Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh 100 Hoa vàng ta để chờ anh Hiện thân ta hát trên cành tâm mai Trần gian chào cõi mộng này Sông Ngân tìm một bến ngoài hoá duyên |
|||
|
Đang xem chủ đề này: 1 Khách