Đánh giá chủ đề:
  • 0 Votes - 0 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
BỆNH TRẦM CẢM?
10-04-2017, 04:21 PM
Bài viết: #4
RE: BỆNH TRẦM CẢM?
CẬP NHẬT THỆM NGÀY 10/04/2017

BỆNH TRẦM CẢM HIỆN NAY ĐẠNG ĐƯỢC BÁO ĐỘNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ RIÊNG TẠI VN , DQ XIN TIẾP THÊM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẬP NHẬT ĐƯỢC MONG BÀ CON CÙNG XEM ĐỪNG BỎ QUA KHI GHÉ TRANG NHÀ GQ.

Những thay đổi nhỏ của cơ thể ít người để ý có thể là những dấu hiệu đầu tiên của trầm cảm mà bạn đã bỏ qua.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết, trên thế giới có gần 300 triệu người mắc trầm cảm. Trong đó Nhật Bản có khoảng 3% dân số, con số này tại Mỹ là 17%.

Tại Việt Nam, WHO ước tính có khoảng 3,6 triệu người mắc căn bệnh này, chiếm 4% dân số (số liệu 2015). Trong đó có khoảng 5.000 người chết vì tự tử do người trầm cảm có nguy cơ tự tử cao gấp 25 lần so với người khác.

10 DẤU HIỆU

PGS.TS Nguyễn Doãn Phương, Viện trưởng Viện Sức khoẻ tâm thần, BV Bạch Mai cho biết, trầm cảm là một rối loạn phổ biến, đây không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối. Bất kỳ ai cũng có thể mắc trầm cảm.
Trong đó phổ biến nhất ở độ tuổi từ 18-45, tỉ lệ ở phụ nữ lớn gấp đôi nam giới. Nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng phác đồ, trầm cảm sẽ được chữa khỏi.

Dưới đây là 10 dấu hiệu phổ biến nhận biết trầm cảm:

- Cảm giác buồn chán, trống rỗng

- Khó tập trung suy nghĩ, hay quên

- Luôn cảm giác mệt mỏi, không muốn làm việc gì

- Cảm giác mình có tội lỗi, vô dụng, không xứng đáng

- Mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều

- Hay cáu gắt, giận dữ

- Giảm thích thú trong các hoạt động hoặc sở thích hàng ngày

- Giảm cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều

- Nghĩ về cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát

TS Dương Minh Tâm, Trưởng phòng điều trị rối loạn liên quan stress, Viện Sức khoẻ tâm thần cho biết thêm, ngoài những dấu hiệu trên, bệnh nhân trầm cảm còn có 18-22 triệu chứng cơ thể khác như đau đầu, đau tức ngực, các rối loạn tiêu hóa, rối loạn kinh nguyệt, giảm ham muốn, đau khớp…

“Tuy nhiên không phải cứ có một trong những dấu hiệu trên là mắc trầm cảm, cần phải có thêm tiêu chuẩn thời gian. Các triệu chứng này phải xuất hiện liên tục từ 2 tuần trở lên mới được chẩn đoán là trầm cảm”, TS Tâm chia sẻ.

Trong đó, cần đặc biệt lưu tâm đến 3 biểu hiện chính: Đột ngột giảm khí sắc (ủ dột, u sầu, chán chường); giảm ham thích so với trước đây (trước đây thích shopping, buôn dưa lê, xem phim... nay không còn); giảm năng lượng (dễ mệt mỏi)... 7 biểu hiện còn lại là những biểu hiện phổ biến.

Ở giai đoạn trầm cảm nhẹ, bệnh nhân sẽ 1-3 biểu hiện chính nói trên và có từ 1-2 biểu hiện phổ biến.

Giai đoạn trầm cảm nặng, bệnh nhân có đầy đủ 8-10 biểu hiện.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến trầm cảm như căng thẳng, bị sang chấn tâm lý trong cuộc sống, học tập, trong quan hệ gia đình, xã hội hoặc sau khi mắc bệnh khác.

Những người có nhân cách dễ bị tổn thương, ít nói, ít chia sẻ, hay lo lắng dễ mắc trầm cảm hơn những người khác.

80% bị nhầm với bệnh khác

Theo TS Tâm, việc điều trị trầm cảm hiện nay hết sức khó khăn, do phần lớn bệnh nhân không được nhận biết và điều trị sớm.

“Có đến 80% bệnh nhân trầm cảm ban đầu đi điều trị các bệnh lý, tìm đến bác sĩ nội, bác sĩ ngoại khoa để khám các triệu chứng cơ thể mà không quan tâm đến triệu chứng cảm xúc”, TS Tâm thông tin.

Ngay tại Mỹ, một nghiên cứu năm 2014 cho thấy có khoảng 2/3 bệnh nhân trầm cảm không nhận ra mình có bệnh và không được điều trị.

Theo PGS.TS Trần Văn Cường, Chủ tịch Hội Tâm thần học Việt Nam, nguyên do khó nhận biết do trong rối loạn trầm cảm có tới 13 thể, trong đó có nhiều thể biểu hiện ra ngoài giống hệt tâm thần phân liệt hay trùng lặp với các triệu chứng bệnh lý như tim mạch, gan, phổi, xương khớp... nên khám mãi không ra bệnh gốc.

Trầm cảm và các bệnh lý khác cũng có sự tương tác 2 chiều, trong đó trầm cảm là yếu tố nguy cơ khiến thời gian điều trị các bệnh nội khoa kéo dài hơn và bản thân những người mắc bệnh lý mãn tính cũng có tỉ lệ trầm cảm lớn hơn như bệnh parkinson có 51% bệnh nhân trầm cảm, tiếp đến là ung thư (42%), đái tháo đường (27%), tim mạch (21%), HIV (12%)...

Do đó các bác sĩ khuyến cáo, nếu thấy có những dấu hiệu thực thể, khám nhiều nơi mà không tìm thấy bệnh thì nên đi khám chuyên khoa tâm thần.

Trầm cảm có thể chữa khỏi được hoàn toàn nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng phác đồ. Hiện nay các phương pháp điều trị chính là dùng thuốc, liệu pháp tâm lý, shock điện, kích thích từ xuyên sọ.

Đây là rối loạn cần điều trị kéo dài. Hơn 50% bệnh nhân vẫn có nguy cơ tái diễn sau lần 1, tỉ lệ này tăng lên 70% sau lần tái diễn thứ 2 và sau cơn tái diễn lên tới 90%. Do đó người mắc trầm cảm cần sự hỗ trợ từ phía gia đình và cộng đồng với các biện pháp trị liệu tâm lý tích cực.

CHÚ Ý

1/ Khoảng 30% dân số Việt Nam có rối loạn tâm thần, trong đó có 25% mắc trầm cảm, là nguyên nhân khiến 36.000 - 40.000 tự tử mỗi năm.

Viện Sức khoẻ tâm thần, BV Bạch Mai đang điều trị cho nhiều bệnh nhân mắc trầm cảm nặng, muốn tìm đến cái chết.

Trong số đó, có một nam thanh niên tự cuốn dây điện vào cổ tay, cổ chân rồi cắm điện để tự tử. Một nữ bệnh nhân 20 tuổi tự cầm dao cứa cổ, rạch cổ tay.

Một cô gái 21 tuổi là sinh viên tại Hà Nội, sau khi chia tay người yêu cùng áp lực ở trường đã rơi vào trạng thái trầm cảm.

- Khoảng 30% dân số Việt Nam có rối loạn tâm thần, trong đó có 25% mắc trầm cảm, là nguyên nhân khiến 36.000 - 40.000 tự tử mỗi năm.

Viện Sức khoẻ tâm thần, BV Bạch Mai đang điều trị cho nhiều bệnh nhân mắc trầm cảm nặng, muốn tìm đến cái chết.

Trong số đó, có một nam thanh niên tự cuốn dây điện vào cổ tay, cổ chân rồi cắm điện để tự tử. Một nữ bệnh nhân 20 tuổi tự cầm dao cứa cổ, rạch cổ tay.

Một cô gái 21 tuổi là sinh viên tại Hà Nội, sau khi chia tay người yêu cùng áp lực ở trường đã rơi vào trạng thái trầm cảm.
trầm cảm, stress, tâm thần, rối loạn tâm thần
Bác sĩ thăm khám cho một nữ bệnh nhân đang điều trị trầm cảm tại BV Bạch Mai

Từ một cô gái khoẻ mạnh, vui vẻ, nữ sinh viên rơi vào trạng thái chán ăn, mất ngủ liên miên, mỗi đêm chỉ ngủ được 3-4 tiếng. Trong 6 tuần, cô sụt 4kg.

Bệnh nhân thường xuyên cảm thấy mệt mỏi, không muốn đi học, không muốn làm việc gì. Liên tục trong 6 tuần rơi vào trạng thái chán nản, mất ngủ và hay ngồi khóc một mình.

Bệnh nhân này nhiều lần chia sẻ với mẹ về cảm giác cuộc sống không còn ý nghĩa, thường xuyên cáu gắt, giận dữ, nhiều lần nói với mẹ cô muốn chết để không phải đau khổ như hiện tại.

May mắn, cô gái 21 tuổi này được gia đình đưa đến viện trước khi có hành động dẫn đến tự sát.

Ngoài ra còn có trường hợp một cụ ông 79 tuổi phải nhập viện cấp cứu khi không chịu nói năng gì, cơ thể suy nhược, gầy sút 3kg trong 3 tuần.

Trước khi vào viện 3 ngày, cụ ông buồn chán nói về cái chết, khóc nhiều, sau đó im lặng, không chịu ăn hay uống bất cứ thứ gì, kể cả nước để được chết.

Bệnh nhân sau đó đã được bù nước, hồi tỉnh trở lại và đang điều trị theo phác đồ trầm cảm.

Số lượng bệnh nhân trầm cảm tăng chóng mặt

TS Dương Minh Tâm, Trưởng phòng rối loạn liên quan stress, Viện Sức khoẻ tâm thần cho biết, cách đây 15 năm, mỗi ngày cả viện chỉ có 1-2 bệnh nhân đến khám. Hiện con số này lên tới 200, trong đó có khoảng 50 bệnh nhân đến khám và điều trị trầm cảm.

Trong năm qua, Viện khám và điều trị ngoại trú cho hơn 18.000 bệnh nhân mắc trầm cảm (chiếm 30%), điều trị nội trú 446 lượt bệnh nhân.

Bệnh trầm cảm có xu hướng tăng do áp lực cuộc sống tăng lên, stress nhiều, gặp nhiều sang chấn...

Theo TS Tâm, trầm cảm có thể xảy ra ở nhiều lứa tuổi nhưng phổ biến nhất là từ 18-45 tuổi. Phụ nữ có nguy cơ mắc trầm cảm gấp đôi nam giới.
Đa số các trường hợp tự sát do bệnh nhân cảm thấy mình vô dụng, tội lỗi, không xứng đáng sống.

Việc điều trị trầm cảm gặp nhiều khó khăn do phần lớn người bệnh không biết mình bị mắc bệnh nên thường điều trị tại các chuyên khoa khác trước khi đến chuyên khoa tâm thần.

Do vậy, trầm cảm có xu hướng dễ trở thành mạn tính và tái diễn cũng như phục hồi không hoàn toàn giữa các giai đoạn.

Gần 14 triệu người Việt Nam đang mắc các rối loạn tâm thần phổ biến. Gần 1/5 trong số này mắc các rối loạn tâm thần nặng.

2/ Chủ quan với mất ngủ, vào viện tâm thần như chơi

Đây là số liệu được đưa ra tại hội thảo lấy ý kiến hoàn thiện chiến lược quốc gia về sức khỏe tâm thần tại Hà Nội sáng nay.

Theo ông Trần Quý Tường, Phó cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế, rối loạn tâm thần là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến nhất hiện nay, là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật.
Theo nghiên cứu, gần 15% dân số Việt Nam (tương đương gần 14 triệu người) mắc các bệnh về rối loạn tâm thần, trong đó khoảng 3 triệu người mắc rối loạn tâm thần nặng như tâm thần phân liệt, sa sút trí tuệ, chậm phát triển. Con số này vẫn không ngừng tăng.

Nguyên nhân chủ yếu do làm việc suốt ngày đêm, áp lực công việc lớn, căng thẳng, tiêu thụ rượu bia nhiều, cách biệt giàu - nghèo, ly hôn, thất nghiệp...

Tuy nhiên số lượng người bệnh rối loạn tâm thần được chữa trị còn cực kỳ thấp, cứ 10 người chỉ có 2-3 người được điều trị, trong đó điều trị bằng thuốc vẫn là chủ yếu, điều trị tâm lý rất hạn chế. Chưa kể số lượng bác sĩ chuyên khoa tâm thần còn rất ít, cả nước có 850 bác sĩ nhưng chỉ tập trung tại tuyến trung ương và các thành phố lớn.

Bên cạnh đó, do nhận thức hạn chế, người dân vẫn chưa hiểu đúng về sức khỏe tâm thần, đánh đồng tất cả đều là "điên" mà không biết có nhiều rối loạn tâm thần khác như trầm cảm, mất ngủ, lo âu... dẫn đến tình trạng kì thị, phân biệt đối xử

3/ Một nghiên cứu mới đây cho thấy, bệnh nhân tim bị trầm cảm tăng gấp khoảng 2 lần khả năng tử vong trong vòng 10 năm tiếp theo so với những bệnh nhân không gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Các nhà nghiên cứu cho biết, trầm cảm – thường gặp sau chẩn đoán bệnh tim – có vẻ như là một yếu tố dự báo về nguy cơ tử vong lớn hơn so với dạng bệnh tim, hút thuốc lá, tình trạng tiểu đường, thậm chí là độ tuổi.

Tác giả nghiên cứu Heidi May cho biết, mặc dù nghiên cứu này không chứng minh trầm cảm dẫn tới tử vong sớm, song cần liên tục sàng lọc trầm cảm cho bệnh nhân chứ không chỉ sàng lọc sau khi có chẩn đoán bệnh tim.
Nghiên cứu này đã xem xét hơn 24.000 người trưởng thành có chẩn đoán mắc bệnh động mạch vành tại 2 bệnh viện ở Utah (Mỹ). Những người này từng bị đau tim hoặc đau thắt ngực, tuổi trung bình khoảng 64, 90% là người da trắng và 70% là nam giới.

Các nhà nghiên cứu đã theo dõi những bệnh nhân này trong thời gian trung bình là 10 năm. Khoảng 15% có chẩn đoán trầm cảm sau khi bị bệnh tim. So với những bệnh nhân không bị trầm cảm, những bệnh nhân bị trầm cảm thường là nữ, bị tiểu đường và từng có tiền sử mắc trầm cảm.

50% số bệnh nhân bị trầm cảm tử vong trong vòng 10 năm so với 38% bệnh nhân không bị trầm cảm. Sau khi hiệu chỉnh thống kê, nhóm nghiên cứu ước tính rằng trầm cảm có thể làm tăng gần gấp đôi nguy cơ tử vong.

Các kết quả nghiên cứu được trình bày tại hội nghị thường niên của Trường Tim mạch Hoa Kỳ. Nghiên cứu được trình bày tại hội nghị khoa học nên được xem là sơ bộ cho đến khi được đăng trên các tạp chí y học có bình duyệt.

4/ Liệu pháp hiệu ứng tâm lý placebo được đánh giá là góp phần thuyên giảm 40% trong sự thành công của việc trị bệnh trầm cảm.

Theo tổ chức Y tế Thế giới WHO, trung bình mỗi năm có đến 850.000 người chết vì bệnh trầm cảm. Có thể đến năm 2020 căn bệnh này được xếp hạng thứ hai về các căn bệnh nặng.

Điều đáng nói là hiện nay khoảng 121 triệu người mắc bệnh này trên toàn cầu thì chỉ có 25% trong số đó được chữa trị kịp thời và đúng phương pháp.

Trầm cảm là hiện tượng ức chế của các quá trình hoạt động tâm thần với bệnh cảnh lâm sàng gồm các triệu chứng thường gặp như: Nét mặt buồn rầu, ủ rũ, mau mệt mỏi, không muốn làm việc, mất hoặc giảm mọi quan tâm thích thú ngay cả những đam mê thích thú cũ, giảm tập trung chú ý, mất hoặc giảm tự tin, tự đánh giá thấp mình.

Quá trình suy nghĩ chậm chạp, ý tưởng nghèo nàn, tự cho mình có tội, bi quan về tương lai. Một số trường hợp trầm cảm nặng, bệnh nhân có thể có ý nghĩ hoặc hành vi tự sát.

Trong trầm cảm thường có các triệu chứng của cơ thể như mất ngủ (thường là mất ngủ cuối giấc, thức dậy sớm), hồi hộp, đánh trống ngực, mạch nhanh, đau mỏi xương cơ khớp, sút cân, giảm hoạt động tình dục. Bệnh nhân thường có hội chứng lo âu và những cảm giác căng thẳng, bất an, sợ hãi...

Người bệnh rối loạn trầm cảm sẽ dẫn đến gián đoạn học tập và khả năng lao động, rối loạn khả năng thích ứng, dần dần tách rời xã hội, chất lượng cuộc sống bị giảm sút sau mỗi giai đoạn trầm cảm. Bệnh càng trở nên trầm trọng khi 20% số họ trở nên mạn tính.

Người bệnh có nguy cơ tự sát cao khi bị trầm cảm tái diễn. Trầm cảm gia tăng còn thúc đẩy tỷ lệ lạm dụng rượu và ma tuý, không chỉ gây ra những thiệt hại cho cá nhân, rối loạn trầm cảm còn ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống của gia đình và xã hội.

Trong điều trị trầm cảm, liệu pháp hiệu ứng tâm lý placebo được đánh giá là góp phần thuyên giảm 40% trong sự thành công của việc trị bệnh.

Thuật ngữ placebo có trong từ điển y học 1894, để chỉ giả dược giống hệt thuốc thật song không chứa hoạt chất chữa bệnh. Placebo làm người bệnh có niềm tin là dùng “thuốc thật” nên từ 1785 được định nghĩa là thuốc gây niềm tin (make-believe medicine). Sau này placebo còn mở rộng, bao gồm cả những điều tạo niềm tin như uy tín, thái độ tận tình, sự khích lệ của thầy thuốc, gọi chung là hiệu ứng plaebo.

Sự quan tâm, chăm sóc tận tình của thầy thuốc sẽ giúp người bệnh có niềm tin khỏi bệnh, các giả thuyết được đưa ra để lý giải cho phương pháp này là:

Thói quen: Lần trước được điều trị trong môi trường y khoa tốt (thầy thuốc chu đáo tận tụy, thuốc men đầy đủ) nên khỏi bệnh. Lần sau đến lại nơi ấy, người bệnh nhớ lại môi trường y khoa cũ mà mình từng thụ hưởng thì cũng sẽ đỡ bệnh.

Thuyết sinh hóa: Khi dùng placebo, người bệnh đinh ninh nghĩ rằng mình đang được thầy thuốc cho “thuốc thật”, có niềm tin mình được chữa bệnh… thì thần kinh sẽ hoạt động kết hợp với nội tiết tạo ra endorphin nội sinh làm giảm đau, đỡ bệnh.

Thuyết nâng đỡ: Người bệnh ở trong trạng thái căng thẳng về bệnh tật. Cho dùng placebo (khích lệ, hứa hẹn) thì họ đinh ninh rằng mình đang được điều trị với thầy tốt thuốc tốt, cảm giác được nâng đỡ ấy từ thần kinh sẽ khởi động các hoạt động các cơ phận theo hướng giải tỏa căng thẳng, dẫn tới đỡ bệnh.

Dù diễn đạt theo các cách khác nhau nhưng giả thiết trên đều có một quan niệm thống nhất, đó là hiệu ứng placebo là có thật nhưng không phải là do tác động trực tiếp của placebo lên các yếu tố gây bệnh mà do placebo tạo ra niềm tin. Niềm tin đó có từ thần kinh trung ương sẽ tác động làm cho các cơ phận khác hoạt động theo hướng tích cực dẫn tới đỡ bệnh. Tuy nhiên, những lý giải vẫn chỉ là giả thuyết và gây nhiều tranh cãi.
THANK YOU
 


Các bài viết trong chủ đề này
BỆNH TRẦM CẢM? - dieuquang - 01-07-2015, 05:56 AM
RE: BỆNH TRẦM CẢM? - langtrang - 02-07-2015, 08:02 AM
RE: BỆNH TRẦM CẢM? - dieuquang - 06-09-2015, 09:02 PM
RE: BỆNH TRẦM CẢM? - dieuquang - 10-04-2017 04:21 PM

Chuyển nhanh:


Đang xem chủ đề này: 1 Khách

Liên hệ | Gốc Quê | Lên trên | Nội dung | Bản rút gọn | Tin RSS