Đánh giá chủ đề:
  • 0 Votes - 0 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
THƠ ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
06-05-2017, 04:38 PM
Bài viết: #2
RE: THƠ ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
dq mạn phép ghi lại sơ về tiểu sử Phật hoàng Trần nhân Tông và tác phẩm CƯ TRẦN LẠC ĐẠO với 4 câu kết CHÂN LÝ của thiền phái TRÚC LÂM YÊN TỬ

Phật hoàng Trần Nhân Tông là con cả của vua Trần Thánh Tông, sinh năm Mậu Ngọ (1258), đăng quang từ năm 1279 với niên hiệu Thiệu Bảo (1279 - 1284) và Trùng Hưng (1285 - 1293); sau đó, lên làm Thái thượng hoàng, nhường ngôi cho Anh Tông, đến năm 1299, xuất gia và năm Mậu Thân (1308), viên tịch ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử.
Phật hoàng có nhiều tên gọi: lúc còn nhỏ là Khâm, Phật Kim và Nhật Tôn; lúc xuất gia lấy pháp hiệu Hương Vân đại đầu đà hoặc Trúc Lâm đại đầu đà, được người đời tôn xưng là Giác hoàng Điều ngự; Nhân Tông là thụy hiệu sau khi viên tịch. Người là vị tổ sáng lập thiền phái Trúc Lâm, cho nên, còn có tên gọi Trúc Lâm sơ tổ.

Thiếu thời, Phật hoàng Trần Nhân Tông là người tài hoa, thông tuệ cả thế học và Phật học. Lên nối ngôi, người là vị vua yêu nước và anh hùng, đã cùng vua cha lãnh đạo triều đình và dân chúng hai lần đánh bại đoàn quân xâm lược Nguyên Mông, lập nên chiến công lẫy lừng trong trang sử của dân tộc và cả thế giới vào thời đại đó. Xuất gia, người là vị tổ khai sáng thiền phái Trúc Lâm - một dòng thiền nhập thế tích cực mang nét đặc thù Việt Nam. Khi vân du qua Champa thiết lập bang giao hữu nghị, người đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vị quốc vương của đất nước này - Chế Mân - để đổi lấy hai châu Ô và Rý (Thuận và Hóa) về cho Đại Việt.

Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, nhà lãnh đạo kinh luân, nhà ngoại giao tài ba, thiền sư lỗi lạc, nhà văn hoá uyên áo và nhà thơ xuất sắc của dân tộc. Ở bình diện nào, người ta cũng phát hiện những điều thú vị, kì lạ ở danh nhân kiệt xuất này. Nói như nhà nghiên cứu văn học Trần Thị Băng Thanh, Trần Nhân Tông “là một con người đa dạng. Trong ông có bản lĩnh quả quyết, vững vàng của một người làm tướng, có cái sắc bén, bình tĩnh, ung dung của một nhà chính trị, ngoại giao, có sự sâu sắc thâm trầm của một nhà thiền học và quán xuyến tất cả là lòng nhân ái, hồn hậu, yêu nước nồng nàn… của con người Việt Nam cùng với một tâm hồn thơ giàu cảm xúc, tinh tế”.

Theo học giả Lê Mạnh Thát, tác giả của Toàn tập Trần Nhân Tông, những gì còn lại trong toàn bộ những trước tác của vua Trần Nhân Tông hiện nay chỉ gồm 32 bài thơ, 2 bài phú, 2 bài giảng, 2 đoạn ngữ lục, 1 bài văn xuôi và một số văn thư ngoại giao. Trong đó, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca được sáng tác khoảng sau năm đại thắng Nguyên Mông lần thứ ba, là một sự kết tụ cả cuộc đời phi thường của vua Trần Nhân Tông. Đây là hai tác phẩm văn học thuộc loại đầu tiên bằng chữ Nôm hết sức giá trị của văn học Việt Nam còn được bảo tồn cho đến ngày nay. Hai tác phẩm phú và ca này đều thuộc văn học luận đề, tập trung trình bày một số vấn đề mang tính tư tưởng và lý luận. Nếu Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là bản kinh sống mở lối cho tăng sĩ Việt Nam xưa cũng như nay một đạo lộ đi đến bến bờ giải thoát an vui thì Cư trần lạc đạo phú có thể nói là “một bản tuyên ngôn của con đường sống đạo, mà Phật giáo Việt Nam đã đề ra và đã chi phối cuộc sống của hàng triệu triệu người Phật tử Việt Nam thời vua Trần Nhân Tông và những thế kỉ sau”

và đây bài thơ CƯ TRẦN LẠC ĐẠO của Phật hoàng Trần nhân Tông.

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Ngài Trúc Lâm Sơ tổ Trần Nhân Tông có trước tác bài Cư trần lạc đạo phú, dài mười hội, cuối bài phú có bốn câu kệ. Xưa nay, bài phú dài ít người thuộc, nên khi nhắc Cư trần lạc đạo thường khiến mọi người nhớ đến bài kệ:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xa hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
居 塵 樂 道
( 竹 林 安 子 第 一 祖 陳 仁 宗 )

居 塵 樂 道 且 隨 緣
饑 則 飧 兮 困則 眠
家 中 有 宝 休寻 覓
对 鏡 無 心 莫問 禪

Tạm dịch:
Sống ở trên đời tuỳ theo hoàn cảnh mà vui với đạo
Ðói thì ăn, mệt thì ngủ
Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm
Ðứng trước cảnh vật mà vô tâm thì không phải hỏi Thiền là gì
Dịch thơ:
Ở đời vui đạo, hãy tuỳ duyên,
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.

Ngụ ý của Tổ Trúc Lâm trong bài kệ trên, đem diễn dịch ra dù là văn xuôi hay thơ cũng còn có nhiều chỗ đáng bàn. Chẳng hạn câu “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” dịch thành “Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa”, cũng có người cho là chưa ổn. Bởi cái ý “mạc vấn thiền” có thể hiểu đơn giản là “đừng hỏi thiền”. Và lý do để Tổ bảo “đừng hỏi thiền” là “đối cảnh vô tâm”, thì còn khó nói hơn. Trong bản dịch văn xuôi và thơ trên đây, dù chuyển ngữ thành “đối diện với cảnh mà vô tâm”, hay “vô tâm trước cảnh”, thì hai chữ “vô tâm” đều chưa được dịch. Chính hai chữ “vô tâm” mới là quan trọng của cụm từ “đối cảnh vô tâm”. Thành ra, việc đọc hiểu thơ thiền của Tổ sư từ thế kỷ XIV đến nay vẫn còn có chỗ chưa rõ.
Mười hội dài của bài phú cũng chỉ nói đến những quan điểm của người tu giữa chốn trần ai này, cùng các điểm khai ngộ lý thiền. Những nội dung ấy, tóm gọn trong bốn câu kệ cuối.
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”(居 塵 樂 道 且 隨 緣 )

“Cư trần” Sống trong cõi đời, Đức Vua – Phật hoàng đã thừa nhận sự tồn tại của huyển thân. Cõi trần là một giả cảnh, chỉ lafg một chặng đường trong luân hồi, nhưng lại là một giai đoạn không thể bỏ qua, chính là giai đoạn để giác ngộ chân lý.
“Lạc đạo” vui với đạo là một tâm thế hành đạo, thuận theo lẽ đạo, tùy duyên mà hành đạo, tùy duyên nhưng bất biến.
“Cơ tắc xan hề khốn tắc miên” (饑 則 飧 兮 困則 眠)
– Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền. Chấp nhận những quy luật của cuộc sống, không chấp ngã, chấp không.
“Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch (家 中 有 宝 休寻 覓
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.” 对 鏡 無 心 莫問 禪)
Mỗi người đều có Phật tính, như trong nhà ai cũng có của báu. Giáo pháp của đạo Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, giống như nhiều dòng sông về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát. Các giáo phái khác dựa vào kinh điển, giáo lý Phật dạy để tu trì, Giáo phái Thiền chủ trương dùng tâm mà truyền tâm. Phật tại tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm. Nếu ai thấy được tâm tịnh thì lập tức thành Phật. Thiền phái cho rằng tất cả kinh điển chẳng qua như ngón tay chỉ mặt trăng. Đến như mặt trăng chân lý thì không thể dùng văn tự ngôn ngữ mà diễn tả hay hiểu rõ được. Vì thế, người tu hành theo pháp môn thiền định đứng ngoài kinh luận.

Chỉ dùng phép tâm ấn của Phật tổ để làm phương pháp truyền tâm cho thế hệ sau. Chỉ khi nào đôi bên hiểu nhau, thông cảm đạo lý, truyền thụ được chân lý thì mới thực hiện được phép tâm truyền.
Các nhà sư tu thiền khẳng định rằng: tuy ngồi thiền trong am cỏ Ngọa Vân trên đỉnh núi Yên Tử. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã dùng hào quang định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với Ngài đều thông tỏ.
Trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt với kinh kỳ. Vua Phật Nhân Tông vẫn rõ được triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành bậc quân vương tôn kính.

Ngài còn biết rõ được biên cương phương bắc, phương tây và phương nam, có được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang giao giữa các nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững, nền an ninh chính trị nước nhà.
Ở Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái Trúc Lâm .Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim triều Trần, giai đoạn Phật giáo là Quốc giáo. Cho nên, việc từ bỏ ngôi vua vào núi để tu hành của Vua Trần Nhân Tông tưởng chừng xuất thế, nhưng đích thực lại nhập thế tích cực.

Từ chức vụ cao sang của Nhà Vua, Vua Trần Nhân Tông trở về ngôi tôn quý của nhà Phật. Vua từ cái nhất thời, hữu hạn mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng. Không phải lúc băng hà, Vua Trần Nhân Tông mới hóa Phật. Danh hiệu Vua Phật Hoàng đã được tôn vinh cho Vua Trần khi Ngài còn tại thế.

“Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên thánh.”
"Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”.(Thiền Tông Chỉ Nam)
“Cư trần lạc đạo” nghĩa là ở đời mà vui đạo, là giác ngộ ngay giữa cuộc đời, giác ngộ không phải xa lánh cuộc đời hay quên đời.
Cư trần lạc đạo phú được viết theo lối phú luật hay phú cận thể của thời thịnh Đường, gồm mười hội dài bằng chữ Nôm và một bài thi kệ bằng chữ Hán kết thúc bài. Mười hội dài phu diễn những quan điểm của người tu giữa chốn trần ai, cùng các điểm khai ngộ lý thiền. Thi kệ yết hậu chính là phần kết luận của bài phú, tóm lược lại tất cả những tinh yếu của toàn bài. Việc sử dụng thể thơ thất ngôn tứ cú để kết nén toàn bộ nội dung tư tưởng là sự lựa chọn khế lí khế cơ, bởi đây là thể thơ đặc biệt, rất thích hợp với nội dung triết luận.

Cư trần lạc đạo
居 塵 樂 道 賦
(竹 林 安 子 第 一 祖 陳 仁 宗)
Đệ nhất hội
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâ
Chơi nước biếc ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý
Biết đào hồng hay liễu lục, thiên hạ năng mỗ chủ tri âm
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng
Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm
Lo hoán cốt ước phi thăng, đan thần mới phục
Nhắm trường sinh về thượng giới, thuốc thỏ còn đam
Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu
Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim
**
Đệ nhị hội
Biết vậy !
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng tính mới hầu an
Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác
Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về cực lạc
Xét thân tâm rèn tính thức há rằng mong quả báo phô khoe
Cầm giới hạnh địch vô thường nào có sá cầu danh bán chác
Ăn rau ăn trái nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay
Vận giấy vận sồi thân căn có ngại chi đen bạc
Nhược chỉn vui bề đạo đức nửa gian lều quý nửa thiên cung
Dầu năng miễn thửa nhân nghì ba phiến ngói yêu hơn lầu gác
**
Đệ tam hội
Nếu mà cốc
Tội ắt đã không
Pháp học lại thông
Gìn tính sáng mựa lạc tà đạo
Sửa mình học cho phải chính tông
Chỉn bụt là lòng sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ
Vong tài đổi sắc ắt tìm cho phải thói Bàng công
Áng tư tài tính sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử
Răn tham sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi Am Sạn Non Đông
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công
Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ đề một đêm mà chín
Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông
**
Đệ tứ hội
Tin xem
Miễn cốc một lòng
Thời rồi mọi hoặc
Chuyển tam độc mới chứng tam thân
Đoạn lục căn nên trừ lục tặc
Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan
Hỏi pháp chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc
Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm phật tổ tây đông
Chứng thực tướng nên vô vi, nào nhọc hỏi kinh nam bắc
Xem Tam Tạng giáo, ắt học đòi thiền uyển thanh quy
Đốt ngũ phần hương, chẳng tổn đến chiên đàn chiêm bặc
Tích nhân nghì tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc
**
Đệ ngũ hội
Vậy mới hay
Bụt ở cong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên ta tìm bụt
Đến cốc hay chỉn bụt là ta
Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng cong quê Hà Hữu
Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La
Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đà đụt lặn trường kinh cửa tổ
Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa
Đức bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã qua
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc châm hoặc xể
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa
Ngăn bát thức nén bát phong, càng đè càng bội
Lẩy tam huyền, nong tam yếu, một cắt một ma
Cầm vốn thiếu dây, xá đàn dấu xoang Vô sinh khúc
Địch chăng có lỗ, cũng bấm chơi xướng Thái bình ca
Lẩy cội tìm càn, còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão
Quay đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa
Lọt quyển kim cương, há mặt hầu thông nên nóng
Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da.
**
Đệ lục hội
Thực thế
Hãy xá vô tâm
Tự nhiên hợp đạo
Dừng tam nghiệp mới lặng tam thân
Đạt một lòng thì thông tổ giáo
Nhận văn nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ
Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo
Han hữu lậu han vô lậu, bảo cho hay the lọt duộc thưng
Hỏi Đại thừa hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt sồi tiền tơ gạo
Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên
Dồi cho vặc vặc tính gương, nào có nhuộm căn trần huyên náo
Vàng chưa hết quặng, xá tua chín phen đúc chín phen rèn
Lộc chẳng còn tham, miễn được một thì chay một thì cháo
Sạch giới lòng dồi giới tướng, nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu
Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân
Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo
**
Đệ thất hội
Vậy mới hay
Phép bụt trọng thay
Rèn mới cốc hay
Vô minh hết bồ đề thêm sáng
Phiền não rồi đạo đức càng say
Xem phỏng lòng kinh lời bụt thốt dễ cho thấy dấu
Học đòi cơ tổ sá thiền không khôn chút biết nơi
Cùng căn bản, tã trần duyên, mựa để mỗ hào ly đương mặt
Ngã thắng chàng, viên tri kiến, chớ cho còn họa trữ cong tay
Buông lửa giác ngộ đốt hoại thảy rừng tà thời trước
Cầm kiếm trí tuệ quét cho không tính thức thuở nay
Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo
Mến đức Cù, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay
Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Đòi ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay
Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo
Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay
**
Đệ bát hội
Chưng ấy
Chỉn xá tua rèn
Chớ nên tuyệt học
Lay ý thức chớ chấp chằng chằng
Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc
Công danh mảng đắm , ấy toàn là những đứa ngây thơ
Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc
Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu
Săn hỉ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc
Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tu một sức dùi mài
Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc
Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay
Trọng bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc
Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo
rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi dọt lọc
**
Đệ cửu hội
Vậy cho hay
Cơ quan tổ giáo
Tuy khác nhiều đường
Chẳng cách mấy gang
Chỉn xá nói từ sau Mã tổ
Ắt đã quen thuở trước Tiêu Hoàng
Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi
Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang
Sinh Thiên Trúc, tử Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ
Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang
Vương lão chém mèo, lại trẩy lòng ngừa thủ tọa
Thầy Hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng
Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư, chẳng cho mà cả
Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang
Phá Táo phất cờ, đạp xuống dấu thiêng thần miếu
Câu Chi day ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang
Lưỡi gươm Lâm Tế, nạng Bí Ma, trước nạp tăng dầu tự tại
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt hượm xá nghênh ngang
Đưa phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn
Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa thửa khoe khoang
Thuyền tử rà chèo, dòng xanh chửa cho tịn tẩy
Đạo Ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái quàng
Rồng Yển lão nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ
Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt dương
Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái Bạch
Bính đinh thuộc hỏa, lại trở sau hỏi hướng Thiên Cang
Trà Triệu lão, bánh Thiều dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát
Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang
Gieo bó củi, nẩy bông đèn, nhân mang mới nát
Lộc đào hoa nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang
**
Đệ thập hội

Tượng chúng ấy
Cốc một chân không
Dụng đòi căn khí
Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông
Há cơ tổ nay còn thửa bí
Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến, bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành
Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên, ai ghẽ có sơn lâm thành thị
Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao
Triền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí
Ngự cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang
Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý
Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm phu
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí
Mày ngang mũi dọc, tướng tuy là xem ắt bẵng nhau
Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vạn vàn thiên lý
**
Kệ vân:
Cư trần lạc đạo thả trùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối kính vô tâm mạc vấn thiền
THANK YOU
 


Các bài viết trong chủ đề này
RE: THƠ ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG - dieuquang - 06-05-2017 04:38 PM

Chuyển nhanh:


Đang xem chủ đề này: 1 Khách

Liên hệ | Gốc Quê | Lên trên | Nội dung | Bản rút gọn | Tin RSS