Đánh giá chủ đề:
  • 1 Votes - 1 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU: TẠI SAO GỌI LÀ VÀM CỐNG ?
20-10-2011, 10:10 AM
Bài viết: #2
RE: QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU: TẠI SAO GỌI LÀ VÀM CỐNG ?
I.NHỮNG TƯ LIỆU VỀ VÀM CỐNG :
Trước khi đưa ra những giả thiết, tôi cũng muốn trình bày thêm về những tư liệu về Vàm Cống mà tôi đã sưu tập được gần 40 năm qua:
v Tư liệu 1: Theo Từ điển TIẾNG VIỆT do viện khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm1992
Trang 1074. vàm dt. Ngã ba sông rạch, nơi rạch chảy ra sông hoặc sông nhỏ chảy ra sông lớn. Vàm sông
Trang 221 cống dt. Công trình ngầm hoặc lộ thiên để nước tự chảy qua,dùng vào việc lấy nước,tháo nước hoặc điều tiết nước.
Trang 201 cóng dt .Đồ đựng bằng sành hình trụ,miệng rộng,có nắp đậy, thân hơi phình,đáy lồi.
v Tư liệu 2 : VÀM CỐNG XƯA VÀ NAY :
( Qua các bài thơ, bút ký, và chuyện kể của các vị tiền nhân )
Tôi có sưu tập được các bài thơ của ông nội tôi nói về Vàm Cống trong các thi tập do ông để lại :
2.1.Bài VÀM CỐNG THƠ
( của ông Lê Văn Mẹo – Bút hiệu là Lê Đức Nhuận- viết năm 1929)

Cựu trào Vàm Cống quạnh hiu
Nước ròng bãi rãi - đậu nhiều ghe buôn.
Tam bản lớn nhỏ cùng xuồng.
Chen nhau mà đậu, luôn tuồng hai bên.
Khi nào nhằm nước ban đêm
Đất đèn sáng hực, như trên Châu Thành.
Các ghe cũng thức đặng canh.
Bối (1) xâm, trộm cướp, hòanh hành tiếp nhau.
Xóm làng sớm tối lo âu.
Sợ e nó oánh (2 ), chớ đâu tránh mình.
Trên bờ lùm bụi lặng thinh.
Chúng nó ở đó, nhà binh (3) nào tường.
Bãi, vồng chúng nó đón thường.
Ban ngày cũng đánh đọan trường ghe buôn.
Khóc la, la khóc thêm buồn.
Nào ai dám chống những tuồng (4 ) du côn.
Ghe buôn các xứ họ đồn.
Tân trào -Quảng hạt (5), các đồn (6) mới hay.
Cho nên đem xáng lại đây.
Múc thông Sa Đéc ngày rày mới an (7).
Nay đà cũng đặng mở mang.
Tàu binh nó chạy khắp tràng xuống lên.
Nhà cửa cất dãy hay bên.
Trại cưa, tiệm lúa lênh khênh (8) tại Vàm.
Lộ ra Cầu Bắc dân làm.
Cất đồn lập lũy, đặng mà sửa sang.
Đem lính trừ khử ác gian.
Cho nên mới đặng đàng hòang bình an.
Hội đồng Ngọc Cứ ( 9) mở mang .
Lập chợ mua bán, bảo an kẻ nghèo.
Chợ nhóm tôm cá gà heo.
Cũng là phẩm vật giàu nghèo đủ no.
Phố cất dãy nhỏ, dãy to.
Dãy ngang dãy dọc, đặng cho mướn tiền.
Cất ra, họ tới mướn liền.
Thành ra sung chợ, bạc tiền dễ lo.

……………..
Lê Văn Mẹo –Bút hiệu là Lê Đức Nhuận

Chú thích :
(1) :Bối là ăn trộm,
(2) :Oánh : là đánh
(3) :Nhà binh : Quân đội
(4) :Tuồng : là phường, là thứ ( ám chỉ loại người ô hợp )
(5) :Quảng Hạt : Một đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh, một khu vực ngày nay
(6 ) : Đồn ( Bót ) :Một trại lính nhỏ, khỏang vài mươi người
(7) : Kinh Sáng Lấp Vò : từ năm 1905, hòan thành năm 1907
(8 ) : Lềnh khênh : là ở nhiều nơi, nhiều chỗ
(9 ) : HĐ Ngọc Cứ : Tên của ông Hội Đồng - thời bấy giờ
2.2.VÀM CỐNG THI :
( của Ông Lê Văn Mẹo – Bút hiệu là Lê Đức Nhuận )

Cựu trào Vàm Cống rất buồn hiu
Nhờ có ghe buôn đậu quá nhiều.
Bờ bến hai bên nhà lải rải.
Bối xâm, trộm cướp xóm liêu xiêu.
Chực chờ lơ đểnh rình ôm của.
Ăn nhậu, chùm nhum , biết bấy nhiêu.
Làng xóm ưu phiền đâu dám đến.
Sợ e nó oán đốt nhà tiêu.

***
Nhà tiêu gầy tạo cũng còn đây.
Nó oán giết thầm, phải bỏ thây.
Quân lính truy tầm thì trốn mất.
Ghe nào cô độc đánh ban ngày.
Đêm hôm lặng lẻ rình đi bối.
Buổi sáng bình minh nhậu quá say.
Tiền bạc tóm thâu dành để đó.
Dè đâu bị bắt phủi sạch tay.

Lê Đức Nhuận

2.3 .Để tàu ghe lớn đi lại dễ dàng hơn, phục vụ cho việc đẩy mạnh khai thác
vùng đất Tây - Nam. Đầu thế kỷ XX ( từ 1905 đến 1907 ) chánh quyền thực dân Pháp cho xáng nạo vét ngọn sông Sa Đéc, cắt 3 đọan cong quẹo, rồi cho tàu xáng đào kinh Lấp Vò nối thông ngọn sông Sa Đéc tới Vàm Cống ( nơi có đặt 2 miệng cống ở 2 đầu con kinh nhỏ chứa nước sinh họat trong khu vực chợ ). Kinh được đào bằng xáng nên vừa thẳng, vừa sâu rộng, tàu ghe thông thương thuận lợi nhanh chóng .( Theo “ Lịch sử truyền thống và Cách Mạng Huyện Lấp Vò 1930 – 1975 trang 10 ).
2.4.Chợ Vàm Cống xưa :
Chợ Vàm Cống được thành lập hồi mười năm đầu của thế kỷ XX (khỏang thời gian từ 1900 đến 1910 ) . Ban sơ, dân cư thưa thớt, quán xá lèo tèo. Năm 1925 thông Bắc Vàm Cống thì bộ mặt Chợ Vàm Cống được biến đổi hẳn đi.
Bài phú truyền khẩu dưới đây, do ông Hương lễ Bùi Xuân Nhờ sáng tác năm 1927 , giúp chúng ta hình dung một Vàm Cống trên bến dưới thuyền, nét đáng yêu của Nam Bộ xưa.
Tân trào quản hạt.
Thuộc địa Bình Thành.
Sông Long Xuyên tỏa biết mấy ngành,
Có một ngã kêu là VÀM CỐNG,
Thấu Lấp Vò uốn quanh dài rộng,
Cồn Cái Cùng ngoài lại giăng ngang.
Bởi sông sâu nước chảy biệt ngàn
Xem hình thế như rồng uốn khúc.

Thuở xưa kia quê mùa phong tục,
Nay mở mang chợ búa hẳn hòi,
Việc bán buôn coi thế phải mòi,
Nên hành khách tới lui đông đảo.
Đời thạnh trị người thêm trí xảo,
Bước lợi danh ai cũng giành đi,
Máy tuần huờn hết thạnh tới suy,
Cơn dâu bể lở đâu bồi đó.

Thấy phong cảnh mảng còn xem ngó
Mà quên coi buôn bán làm sao?
Kìa chợ đông thiên hạ ồn ào,
Bán đủ thứ cá tôm gà vịt.
Hai bên đường ghế thì bán thịt,
Chõng bạn hàng lại dọn xen vô,
Phố giăng ngang xem tợ thành đô,
Thuyền đậu lợp như sông Xích Bích,
Sào cặm ghe dày như kiếm kích,
Dây buộc thuyền tợ khổn tiên thằng.
Cánh bạn hàng dữ tợ bà Chằn,
Quân góp chợ hung như hùm hổ!
Mấy quán cơm người ăn chật chỗ,
Tiệm nước thì bánh trái huyên thiên.
Nhóm buôn hương nhiều đứa có duyên,
Phường công tử hiếm tay anh chị.
Chợ nhỏ mà không thua thành thị,
Chành lúa thì dãy dọc dãy ngang,
Sắp “cu ly” đội lúa có hàng
Lên xuống thể quan ba tập lính.
Tài phú thì tay cân miệng tính,
Tiếng Quảng Đông “Hố mại tì khao”
Bên tiệm cưa cây sắp như rào,
Tiếng đẩy kéo nghe thôi sột soạt;
Máy xay lúa chạy nghe rầm rạt,
Gọng xúp-lê te tét vang tai;
Đò Cái Dầu ghé chợ ban mai
Rước hành khách đi thôi khẳm mẹp!

Lúc ban đêm xem càng thêm đẹp:
Trường hát thì chật nứt ngoài trong,
Đèn ghe giăng đậu mấy khúc sông,
Bờ nghểu nghến giai nhân tài tử.
Mặc tình khách phong lưu ngoạn thử
Giải khát dùng nước đá nước chanh,
Rượu xi-rô, cô-nhắc, sâm-banh,
Trái cây đủ, hột gà la-cót...
Cô bán vàm rao nghe thảnh thót:
Cháo vịt gà, chè đậu, bánh canh...
Lái buôn nào ngôn ngữ cho lanh,
Kêu lại nếm một lần thì biết.

Hai bên Bắc có đò hai chiếc
Đưa xe hơi qua lại hằng ngày,
Kèn xe hơi kêu gọi bên tai,
Gió phưởng phất ào ào lượn sóng.
Bước đường đời cao xa lồng lộng,
Mặc tình ai đắm nguyệt say hoa;
Mắt nhìn xem những chốn phiền ba
Miền đô hội nam thanh nữ tú...

Buôn bán lớn toàn là khách trú,
Còn An Nam xẩn bẩn hại nhau!
Gẫm tình đời ngắm trước xem sau
Đường tấn bộ không ai lướt tới!
Hễ nước thạnh thì tài tử quới
Còn gia phồn thì tiểu nhi kiêu.
Mấy ai rằng văn tự gấm thêu
Kẻ kẻ thảy lúa tiền trân trọng.
Chữ phú quý như phù vân mộng,
Cuộc hưng vong thiên địa tuần huờn,(1)
Trớ trêu thay tạo hóa đòi cơn
Lắt lẻo bấy nhân tâm nhiều chuyện:
Phú tao tật đố, bần tao tiện
Cần viết tham lam, kiệm viết kiên! (2)
Ngửa mặt trông nước thạnh đời yên
Ngóng cổ đợi dân cư lạc nghiệp

LÊ TƯƠNG ỨNG ( BÌNH TAM LÊ sưu tầm và chú )
1) Sự giàu sang ví như giấc mộng, như mây nổi
. Theo quan niệm xưa ,cuộc hưng thạnh hay suy vong là do sự xoay vần của trời đất.
(2) Giàu bị ganh ghét, nghèo bị khinh khi.
Siêng năng bị chê là tham lam, tiết kiệm bị chê là bỏn xẻn.

Bài phú truyền khẩu trên đây, do ông Hương lễ Bùi Xuân Nhờ sáng tác năm 1927, do chú của tôi là giáo sư Lê Tương Ứng sưu tập từ người anh cô cậu là Bác Sáu Lâm Văn Truyền sinh năm Quí Sửu 1913 hiện đang sống tại ấp Bình Thạnh1 Thị trấn Lấp Vò phổ biến lại từ năm 1980 ( còn tiếp )

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
 


Các bài viết trong chủ đề này
RE: QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU: TẠI SAO GỌI LÀ VÀM CỐNG ? - caubaxuan - 20-10-2011 10:10 AM

Chuyển nhanh:


Đang xem chủ đề này: 1 Khách

Liên hệ | Gốc Quê | Lên trên | Nội dung | Bản rút gọn | Tin RSS