Đánh giá chủ đề:
  • 0 Votes - 0 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
21-10-2011, 09:18 AM (Được chỉnh sửa: 01-12-2012 08:22 AM bởi caubaxuan.)
Bài viết: #1
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
Hôm nay caubaxuan mở chủ đề mới:LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH.Đầu tiên sẽ viết về những địa danh của huyện Lấp Vó tỉnh Đồng Tháp trước, sau đó sẽ đăng tiếp các bài của các huyện, tỉnh và các địa phương khác...Caubaxuan cũng kính mời các thành viên của gocque.com tham gia viết bài vào chủ đề nầy, để gốc quê của chúng ta ngày thêm phong phú.
Đầu tiên là bài viết về xã Định An, mời bà con vào xem và góp ý...
ĐỊNH AN
MỘT XÃ LÂU ĐỜI BÊN BỜ SÔNG HẬU
NHỮNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ ĐẶC SẢN ĐỊA PHƯƠNG


Định An, là một vùng đất phì nhiêu và thân thiện…Tên gọi thân thương của một xã vùng ven bên bờ sông Hậu. Nơi có bóng mát của những vườn cây bao bọc lấy những đồng ruộng xanh tươi bát ngát, nơi có hương vị đậm đà của những đặc sản do phù sa của dòng sông Hậu ngọt ngào và hiền hòa mang đến.
Tên gọi của xã Định An, có nguồn gốc từ rất lâu.và có thể kết luận rằng địa danh Định An đã có từ thời khai hoang mở đất. Ta hãy xem lại quá trình hình thành và phát triển của xã Định An qua các giai đoạn lịch sử.
I.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH,PHÁT TRIỂN QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ:
Theo “Lịch Sử truyền thống và cách mạng Huyện Lấp Vò”của Ban Chấp Hành Đảng Bộ Huyện Lấp Vò-Tháng 4-2008; trang 14 có ghi từ năm 1808. Nguyễn Ánh đổi dinh Vĩnh Trấn thành trấn Vĩnh Thanh ( Vùng đất Lấp Vò hiện nay thuộc hai Tổng Vĩnh Trung và Vĩnh Trinh ) Huyện Vĩnh An gồm có các thôn : Định An, Bình Thành Tây, Bình Thành Đông, Cựu Hội An….
Năm 1836 đến khi Pháp xâm lược, thì vùng đất Lấp Vò thuộc tỉnh An Giang , Trong đó làng Định An, Bình Thành Tây, Bình Thành Đông thuộc Tổng An Phú huyện Đông Xuyên.Còn các làng khác của huyện Lấp Vò hiện nay như Hội An, Tân An Trung,Tân Mỹ ,Vĩnh Thạnh, Tân Dương….. thì thuộc Tổng An Thạnh và tổng An Thới huyện Vĩnh An. ( sách đã dẫn trang 15 )
Đến năm 1947 thì tên làng Định An không còn có tên trong địa phận huyện Lấp Vò nữa, mà thay thế bằng làng Định Yên cùng với 6 làng khác thuộc Tổng An Phú, quận Thốt Nốt, Tỉnh An Giang . Còn lại 8 làng khác thì thuộc Tổng An Thạnh Thượng, tổng An Thạnh Hạ, quận Châu Thành. Tỉnh Sa Đéc.(sách đã dẫn trang 16)
Như thế , địa danh Định An đã được xác định trong địa bạ triều Nguyễn từ rất lâu đời, và được nhắc đến trong một thời gian dài, mãi đến năm 1947 làng Định An mới đổi thành làng Định Yên ( năm 1947 ) rồi thành xã Định Yên (năm 1954 ).
Đến ngày 6/3/1984, xã Định Yên được tách thành 2 xã Định Yên và Định An. Như thế địa danh Định An một lần nữa được có tên trong đơn vị hành chánh của Huyện Lấp Vò.
Định An đó là tên của một xã mới đang xây dựng và phấn đấu vươn lên CNXH trong thời kỳ đổi mới. Đó là niềm tự hào của nhân dân xã Định An đối với địa danh có truyền thống và có tên gọi từ rất lâu đời của quê hương mình.
Xã Định An nằm ở phía Tây Nam của huyện Lấp Vò, phía Bắc giáp với ấp Bình An của xã Bình Thành, phía Nam giáp với xã Định Yên, phía Đông giáp với ấp Bình Hòa xã Bình Thành và Vĩnh Thạnh, phía Tây giáp Sông Hậu
.Tổng diện tích tự nhiên của xã là 1865,75 ha, tổng số hộ 3512 với tổng số dân là 16.628 người. Xaõ được chia thành 4 ấp gồm: An Hòa, An Lạc, An Ninh và An Phong.
Định An là cái tên rất thân thương đối với những người sinh sống trên vùng đất hiền hòa và trù phú này, một vùng đất được dòng phù sa dòng sông Hậu bồi đắp quanh năm, nhất là vào mùa nước dâng cao từ thượng nguồn sông Mékong đổ xuống với lưu lượng trung bình 90.000m3/giây. Cũng trong 1 giây đồng hồ, lưu lượng đó chuyên chở trung bình 5/10.000 trọng lượng phù sa trong mùa khô và khoảng 15/10.000 trọng lượng phù sa trong mùa mưa cung cấp cho các tỉnh vùng hạ lưu. Thế nên đa phần đất đai trong xã thuộc dạng đất phù sa, đất cát bãi bồi. Mực nước lên cao từ tháng bảy đến tháng chín âm lịch, từ tháng Mười âm lịch mới bình lại. Vì kinh rạch nhiều, nhất là nhờ sông Hậu nên rút ra biển rất nhanh,không bị lụt. Khí hậu cận xích đạo nên nóng ẩm, có hai mùa khô và mưa rất rõ rệt. Tuy nhiên khí hậu của xã Định An luôn luôn trong lành và mát mẽ bởi hơi nước thường xuyên của dòng sông Hậu mang đến.
Xã Định An có đất đai màu mỡ do được dòng sông Hậu bồi đắp phù sa hàng năm. Trồng trọt là một thế mạnh của Xã Định An ,Tổng diện tích gieo trồng năm 2008 là 2.681 ha, hệ số sử dụng đất :2,7 lần đạt 100% kế họach. Trong đó, diện tích lúa là 2.370 ha, năng suất lúa cả năm đạt 5,7 tấn / ha ; tổng sản lượng đạt 13.509 tấn, hoa màu xuống giống và thu họach 311 ha.
So với các xã khác trong huyện, xã Định An có vị trí địa lý thuận lợi để phát triển kinh tế về nông nghiệp, công nghiệp, và tiểu thủ công nghiệp . Do có Quốc lộ 54 chạy qua và nằm cạnh sông Hậu Giang nên rất thuận tiện cho việc vận chuyển và giao lưu hàng hóa với các các tỉnh khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đời sống kinh tế xã Định An chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Đi mua bán bằng ghe ở những nơi xa . Bên cạnh đó lúc nông nhàn người dân sản xuất một số mặt hàng truyền thống như chiếu, thớt, chổi lông gà … Góp phần tăng thu nhập cho cuộc sống gia đình. Về nuôi trồng thủy sản có 75 ha mặt nước, nuôi trồng thủy sản theo mô hình công nghiệp và ao hầm nhỏ lẻ. Hàng năm người dân Định An còn thu hoạch trái cây như chuối, bưởi, dừa... với một số lượng lớn
Ngòai ra xã Định An cũng rất quan tâm đến việc chăn nuôi gia súc, gia cầm : Chăn nuôi được đàn bò cái Lai-Sind 30 con, bò thịt 10 con, đàn heo 4000 con, đàn gia cầm 21.5000 con.
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng được chính quyền địa phương ưu tiên phát triển và khuyến khích đầu tư : Các nhà máy xay xát, dệt chiếu, đóng xuồng ghe vẫn duy trì họat động, tòan xã có 14 lò gạch đang sản xuất, hai cơ sở chế biến sơ dừa xuất khẩu.
Hệ thống giáo dục quốc dân: Định An có 4 trường (1 trường Mẫu giáo,2 trường Tiểu học và 1 trường THCS ) chủ yếu nằm ven quốc lộ 54 và có 5 điểm trường phụ của bậc tiểu học được phân bố đều khắp các ấp trong xã. Hệ thống trường lớp được xây dựng kiên cố, sạch đẹp, cơ bản đáp ứng yêu cầu dạy và học.
Năm 1999, Xã Định An được công nhận đạt chuẩn công tác phổ cập giáo dục Tiểu học và xóa mù chữ và được công nhận đạt chuẩn công tác phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi vào tháng 11 năm 2004 và đã được UBND huyện Lấp Vò ra quyết định công nhận đạt chuẩn phổ cập Phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào tháng 08 năm 2006.Trường THCS Định An là một trường có nhiều thành tích trong sự nghiệp trồng người ở địa phương, gần đây được đánh giá là một trong những trường trọng điểm của huyện, được Phòng Giáo Dục và UBND huyện Lấp Vò đầu tư để xây dựng thành trường chuẩn quốc gia trong năm 2015.
Trạm y tế được xây dựng kiên cố, khang trang để phục vụ đời sống và sức khỏe của người dân trong xã. trạm gồm có 8 phòng làm việc và điều trị bệnh.Trong năm 2010, trạm y tế triển khai thực hiện các chương trình y tế quốc gia, hộ ăn chín, uống chín. Hiện tòan xã có trên 70% số hộ sử dụng nước sạch, thường xuyên tuyên truyền đến các hộ dân, khu dân cư các nội dung diệt lăng quăng phòng chống bệnh sốt xuất huyết, các chương trình tiêm chủng mở rộng,phòng chống HIV/AIDS.
Từ năm 2008 đến nay xã Định An cũng đã tồ chức lễ phát động tòan dân đòan kết xây dựng xã văn hóa ; Họp mặt ngày gia đình Việt Nam.và tổ chức thành công Đại hội Khuyến Học xã nhiệm kỳ 2008 – 2013
Công tác xóa đói giảm nghèo, luôn luôn được Đảng Bộ và chính quyền địa phương quan tâm.Tòan xã có 3506 hộ đạt các tiêu chuẩn gia đình văn hóa đạt tỉ lệ: 99,82% Nhiều công trình xây dựng mới : Cầu Bạch Đằng, Cầu Rạch bàu, Cầu Thông Hậu...Văn phòng Đảng Ủy,Trạm y tế, sân bóng đá tại Ấp An Lạc, cống thóat nước khu dân cư Thầy Phó – Ông Đạt, công trình xây dựng bờ kè chống sạt lỡ tuyến đường đal ven sông Hậu ( vàm Ông Bồi ), và các công trình thủy lợi nội đồng.
Tìềm năng du lịch của xã Định An, hiện nay chưa phát triển ;Nhưng tiềm năng nầy trong tương lai có thể phát triển trong lĩnh vực tham quan du lịch các nghề dệt chiếu, nghề săn bắt cá bông lau về đêm, và thưởng thức các món đặc sản của địa phương : Hến 7 món , săn bắt cá bông lau,…
II. ĐẶC SẢN CỦA ĐỊA PHƯƠNG :
Hến bảy món : Ở Huế nổi tiếng với món Cơm Hến, nhưng nhiều người đã đến đó thưởng thức rồi nhận xét : cơm Hến tuy được gọi là đặc sản của Huế nhưng thực chất Cơm Hến ở đó chưa có thể sánh với các món Hến ở tại Định An khi đã được chế biến thành những 7 món, thực là hấp dẫn và khi đã thưởng thức xong rồi thì khó có thể quên được những cảm giác lạ miệng và hương vị đặc trưng của các món được chế biến từ Hến ở Định An.( Có thể những nhận xét trên của các bạn tôi mang tính chủ quan, vì khi thưởng thức Cơm Hến ở Huế có lẽ không hợp với khẩu vị của địa phương )
Trước khi thưởng thức các món Hến, mời các bạn hãy tìm hiểu xem Hến ở xã Định An được bắt như thế nào, ở đâu, trong thời diểm nào,cách bắt và chế biến ra sao ? Sau khi tìm hiểu rồi; tôi cam đoan bạn sẽ có cảm giác thèm thuồng ngay các món hến nầy và sẽ nhanh chóng về Định An để thửơng thức
Hến ở xã Định An đã có từ rất lâu, được nhân dân ở đây mò , xúc đãi và cào theo từng giai đọan thời gian. Ngày xưa khi tôm cá còn nhiều, thì Hến được xếp vào hàng thứ phẩm, ít khi được dùng trong các bữa ăn hoặc làm mồi nhậu lai rai. Khi đó thì dân nhậu chỉ cần bỏ ra nửa giờ là có thể có một bàn nhậu thịnh sọan với tôm cá, gà vịt…Kém tiền hơn nữa thì xuống sông mò bắt những con Ốc, con Vẹm, con Bung Bung - Chang Chang ( còn gọi là con Trai sông ), con bắp chuối ( giống như con Vẹm nhưng nhưng tròn hơn và không có cánh buồm ), thì cũng xôm tụ hơn, mồi màng đa dạng phong phú hơn…Nhưng càng ngày cá tôm càng hiếm, ốc cua cũng lần lượt khó bắt hơn. Thịt gia cầm, thịt heo giá cả ngày một đắt đỏ. Tới bấy giờ thì người dân chợt nhớ tới đặc sản có sẵn , rất phong phú của địa phương và chế biến được nhiều món ngon có thể thay đổi trong thực đơn hằng ngày của gia đình hoặc trên bàn nhậu mà rẽ tiền, ngon miệng, thế là nghề khai thác hến được ra đời.
Nghề khai thác Hến ở Định An ra đời cách nay hơn hai mươi năm. Sau khi nhà nước cho Sáng Cạp về vét lại các con sông trong huyện Lấp Vò . Nhất là các con sông ở các xã Định An, Định Yên trong thời gian khỏang năm 1986 -1987 thì vài năm sau lượng phù sa của dòng sông Hậu đổ về mang theo nhiều chủng lọai giống Hến, Vẹm, con Bung Bung - Chang Chang , con bắp chuối …..với số lượng nhiều hơn lúc chưa có Sáng Cạp. Theo lời kể của những người lớn tuổi ở địa phương thì trước đây các phụ lưu của Sông Hậu thuộc xã Định An cũng có thể bắt được nhiều Hến ,Vẹm… Nhưng từ khi các nhánh sông phụ lưu được vét sâu hơn, chứa nhiều phù sa thì số lượng Hến ,Vẹm…được tăng lên đáng kể, Vì trước đó những người lớn tuổi nầy muốn mò bắt Hến ,Vẹm …”phải ra tận các bãi cồn ngòai sông Cái để bắt…”. Hiện nay hầu như các kinh rạch của xã Định An thì nơi nào cũng có thể bắt được Hến cả, nhưng số lượng ít nhiều theo từng thời điểm, khúc kênh rạch và tầng suất khai thác của người dân.
III.LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG: XÓM THỚT
Dọc theo Quốc lộ 54 thuộc địa phận huyện Lấp Vò Tỉnh Đồng Tháp, từ Vàm Cống xuống Định An gần 3 Km, cách chợ Hòa Lạc khỏang 200m bạn sẽ thấy hiện ra một Xóm Thớt đang nhộn nhịp làm nghề chuẩn bị cho bạn hàng bỏ mối bán Tết. Những tiếng cưa, tiếng đục, tiếng máy đang thực hiện các công đọan của nghề làm thớt, sẽ làm bạn vui tai và gây sự chú ý , tò mò cho bạn. Nhìn những chiếc thớt xinh xắn phới nắng được xếp thành từng chồng hoặc rãi đều ra như một quả đồi nhỏ sẽ làm cho bạn liên tưởng đến một bức tranh nghệ thuật độc đáo, những chiếc thớt ấy cuối buổi được thu gom để làm tiếp các công đọan cuối cùng, và sau đó sẽ giao cho bạn hàng .Ngòai những chồng thớt đã thành phẩm, bạn có thể nhìn thấy các cây nguyên liệu để chuẩn bị làm thớt, những dăm cây, mạt cưa , những phần thừa phía ngòai của tấm thớt ( các phần gổ thân cây, vỏ cây lọai ra sau công đọan lọng tròn ) được phơi nắng bán như củi nấu bếp. Hằng ngày tại Xóm Thớt nầy có thể cung cấp hơn 1000 tấm thớt. Nhất là trong dịp cuối năm giáp tết , số thớt làm ra có thể nhiều hơn, vì các hộ gia đình ở đây đã chuẩn bị các nguyên liệu sản xuất từ nhiều tháng nay.
Hằng ngày khi xuống trường để công tác, tôi phải đi qua Xóm Thớt, thấy người dân đang làm nghề ngày càng phát triển. Cuộc sống mỗi ngày sung túc hơn. Nhân dịp làm báo xuân Kỷ Sửu, viết bài về lịch sử của trường THCS Định An và lịch sử địa phương, nên tôi có dịp tìm hiểu kỹ hơn về nguồn gốc và đặc điểm của nghề Làm Thớt một cách chi tiết và tỉ mĩ hơn .Tiếp xúc với ông Phạm Văn Phuônl ( 84 Tuổi ) một trong những nghệ nhân lớn tuổi của làng nghề, để tìm hiểu thêm về nguồn gốc xuất phát của nghề làm thớt. Thật là may mắn cho chúng tôi vì ông chính là rễ của Ông Nguyễn Văn Khá - “Ông Tổ làng nghề Làm Thớt ở Xóm Thớt xã Định An” .
Bác Sáu Phạm Văn Phuônl kể : Khỏang năm 1945 đến năm 1948.Cha vợ của ông là ông Nguyễn Văn Khá ( sinh năm Đinh Dậu 1897 ) cùng với những người bạn chèo, chở bò mua được trong vùng xuống bán tận dưới Trà Vinh, vì bò ở dưới mua rất được giá, có lời nhiều. Khi quay ghe về thì ông mua lá lợp nhà để bỏ mối cho các vựa ở miệt Vàm Cống, Định Yên…Trên đường đi buôn, ông Hai Khá (Nguyễn Văn Khá ) thấy ở hai bên đường có rất nhiều cây Mù U, hỏi mua thử thì dân ở đây bán rất rẻ, ông bèn nảy sinh ý nghĩ kinh doanh mới, cây mù u nhỏ thì bán làm cột, làm kèo, còn cây lớn thì cưa làm thớt bán có giá hơn.Khi về cưa ra làm thớt xong, chở thớt xuống các chợ Vàm Tấn ( Sóc Trăng ), chợ Phụng Hiệp ( Cần Thơ ) chào hàng thì thớt Mù U bán rất đắt và lại được giá. Thế là nghề làm thớt được ra đời tại xã Định An vào khỏang năm 1948. Từ đó, Trong mỗi chuyến đi buôn bò, khi quay ghe về ông mua Mù U, Me Nước để làm thớt. Nhu cầu sử dụng thớt ngày một đòi hỏi cung cấp nhiều hơn, nên ông phải thuê người làm cùng với các con cháu trong gia đình và phát triển nghề làm thớt. Sau đó nhiều người trong xóm học nghề ông, đi mua cây về làm thớt xong bỏ mối cho các bạn hàng đi bán khắp các chợ trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Lâu dần Xóm Thớt được hình thành .Như thế làng nghề Làm Thớt ở xã Định An đã phát triển hơn 60 năm và có gia đình đã truyền được 3 đời (Ông Hai Khá,Cô Hai Thành- Con Ông Hai Khá- Chị Thái, anh Hải –Cháu ngọai Ông Hai Khá-)
Tiếp xúc với Anh Tư Lê Văn Đông (72 tuổi ). Anh cho biết: Làng nghề xóm thớt có từ rất lâu, trên 60 năm từ lúc anh được 9 hay10 tuổi gì đó. Gia đình đầu tiên làm nghề thớt là ông Nguyễn Văn Khá. Sau đó truyền lại cho bà con trong xóm. Vì nghề làm thớt cũng đơn giản, dễ làm nên bà con trong xóm học nghề rất mau, và nghề được phát triển nhanh . Hiện nay có khỏang 30 gia đình theo nghề làm thớt. Trước đây mỗi ngày một gia đình chỉ có thể làm được 10 đến 15 tấm . Từ khi ứng dụng các phương tiện cơ giới như máy cưa dùng để xẻ cây, máy cắt, máy lọng, bào điện.. . Thì một gia đình nếu có đủ nguyên liệu thì có thể cung cấp được trên 200 thớt một ngày. Anh cũng cho biết trước đây khi cây rừng còn nhiều thì làm thớt bằng những lọai cây có chất lượng cao như : Mù U, Me Chua, Me Nước….Nay thì đôi khi cũng mua được các lọai cây chất lượng kể trên , còn thường thì mua các lọai cây như Me Nước, Me Chua, Xà Cừ, Còng ( Me Tây ),Xòai…Theo Anh cho biết để làm ra một chiếc thớt thành phẩm, thì tngười thợ phải thực hiện nhiều công đọan của làng nghề. Nếu trước đây làm nghề bằng phương pháp thủ công thì gồm các công đọan như : Mua cây về, phân đọan, cắt thớt, lấy mực, ra vóc, đẻo, gọt láng và bào mặt…Nay thì nhờ máy móc thực hiện tiếp ở một số khâu như :Mua cây về, dùng máy cắt phân đọan, cắt thớt, quây mực, lọng tròn, gọt láng và bào điện, Công đọan gọt láng luôn phải dùng tay vì người thợ phải xử lý tấm thớt theo nhu cầu thi trường…nên không thể dùng máy móc thay thế được.
Hiện nay, có nhiều gia đình tiêu biểu trong nghề làm thớt như : Cô Hai Thành (Con ông Hai Khá ), ông Nguyễn Văn Mạnh, Ông Lê Văn Đông, Anh Ba Quang ….
Về giá cả thì Anh Tư Đông nói : “ Giá cả của tmỗi tấm thớt thì khó nói được, vì tùy theo thời điểm, chủng lọai cây làm thớt, độ dầy, độ lớn của tấm thớt….mà giả cả mỗi tấm thớt sẽ khác nhau” .Và một lý do tế nhị khác mà anh ngập ngừng không muốn nói.
Trước khi chúng tôi ra về Anh có tâm sự thêm : Theo anh và đa số những người dân trong làng nghề đều mong muốn có sự hỗ trợ vốn của nhà nước.Vì hiện nay bà con trong làng nghề rất cần vốn để phát triển. Có vốn thì mua cây nguyên liệu về dự trữ sẵn ; như thế sẽ luôn luôn có cây để làm thớt. Số tiền cần nhà nước cho vay , theo anh thì khỏang từ 5 triệu đến 10 triệu đồng một hộ.
Một nguyện vọng khác của đa số bà con trong làng nghề. Cũng theo anh cho biết, là họ muốn có một ngày Giỗ Tổ trong làng nghề, để người dân trong xóm thớt tỏ lòng tri ân và tưởng nhớ đến người đã gầy dựng nên làng nghề cũng như đã đem lại đời sống ấm no cho gia đình họ. Theo tôi được biết thì cũng có nhiều người đề xuất, chọn ngày giỗ của Ông Nguyễn Văn Khá - “ông Tổ làng nghề Làm Thớt ở Xóm Thớt xã Định An” để làm ngày Giỗ Tổ của làng nghề. Ông Nguyễn Văn Khá mất ngày 28/08Âl năm Quý Mẹo 1963. và mọi người đều muốn chọn ngày 28 /8 âl hằng năm làm ngày Giỗ Tổ của làng nghề, và lần Giỗ Tổ đầu tiên bà con muốn nhờ chính quyền địa phương đứng ra tổ chức dùm để ngày giổ được trang nghiêm và long trọng.
Xóm Thớt – quê hương tôi đó, với làng nghề truyền thống đã đóng góp cho quê hương một nét văn hóa đặc sắc của miền quê Nam Bộ. Một địa chỉ mà bạn có thể đến để tham quan về một nghề truyền thống và khi về với những món quà nhỏ dễ thương, chất lượng và cần thiết trong cuộc sống gia đình. Hãy đến Định An bạn nhé, quê hương tôi luôn luôn chào mừng bạn đến viếng thăm.

LÊ PHÙNG XUÂN

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
[-] caubaxuan được 2 thành viên cám ơn cho post này:
dieuquang (02-12-2012 04:40 AM), Hoang Oanh (20-03-2013 03:56 PM)
21-10-2011, 07:45 PM
Bài viết: #2
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
BÔNG SÚNG- MÓN RAU HẤP DẪN
LẪU MẮM – BÔNG SÚNG

Caubaxuan
Ở xã Định An, hay bất cứ vùng quê nào trong vùng Đồng Tháp Mười, đến mùa nước nổi từ tháng 7 Âm lịch đến cuối tháng 10 âm lịch, thì hầu như các đồng ruộng trong tỉnh Đồng Tháp đều bị ngập lụt mênh mông. Do điều kiện sinh thái và tự nhiên như thế, nên việc trồng rau xanh để giải quyết nhu cầu ẩm thực của con người trong mùa nước nổi, là điều khó khăn và thiết yếu. Vì khi thưởng thức các món cá trời cho, đặt biệt trong mùa nước được chế biến thành nhiều món khóai khẩu, mà thiếu rau thì kể như kém ngon một nửa. Song thiên nhiên cũng có qui luật bù trừ, không có đất để trồng rau, thì có rau tự nhiên sẵn có trong mùa nước để ăn kèm cho đủ bộ với các món cá chỉ xuất hiện trong mùa nước. Trong đó cây bông súng, bông điên điển, và rau cải trời… đã chiếm những vị trí hàng đầu trong các thứ rau mùa nước.(bông điên điển và rau cải trời tôi sẽ nói đến trong những bài sau ).
Bông súng đã trở thành một thứ rau tươi ngon, sẵn có, hấp dẫn, đối với mọi người, rất bình dân, không kén chọn người ăn, mọi người đều có thể dùng được, không phân biệt giàu, nghèo. Đã từ lâu, người dân Định An -Đồng Tháp nói riêng, người dân đồng bằng Sông Cửu Long – Nam Bộ nói chung, đã biết khai thác giống rau trời cho nầy, thành món ăn không thể thiếu được trong mâm cơm hằng ngày, hay dùng kèm với các món đặc sản mùa nước.
Những món ăn thông thường nhưng không kém hương vị đậm đà của quê hương có dùng để ăn chung với rau bông súng có thể kể ra vài món như : bông súng chấm cá linh kho lạt, canh chua cá linh, gỏi bông súng trộn tép……Còn những món đặc sản nói đến mọi người phải thèm và âm thầm nuốc nước bọt như: Lẫu mắm ăn với bông súng , ngó sen… thì được giới sành điệu biết đến, luôn được xem là đặc sản chỉ có ở Nam Bộ. Cách đây không lâu. Hằng năm vào mùa nước nổi khỏang tháng 9, tháng 10 Dl, trên những cánh đồng mênh mông nước bạc ở Đồng Tháp, bông súng nở rộ lên mặt nước từng chùm, đong đưa sau những cơn gió nhẹ, ở xa nhìn ta cảm tưởng như những đứa trẻ đang nô đùa trong đồng quê sông nước. Để thu họach lòai rau trời cho nầy, trong khi thăm lưới trên những cánh đồng, ngay từ khi mờ sáng, những người sống bằng nghề sông nước đã dùng chiếc xuồng con chuyên dụng, đã rút từng bông súng, mỗi cọng bông súng thường có chiều dài từ hai mét rưởi trở lên ( nay thì mỗi cọng bông súng dài khoảng một sãi tay là đã được thu hái rồi ), bó thành từng lọn và sau mỗi đợt thăm lưới, hái rau về bỏ mối lại cho các “ bạn hàng” kiếm cũng được vài chục nghìn đồng. Nhờ thế, người dân mùa nước nổi mới có thể sống qua ngày trong điều kiện khắc nghiệt của vùng nông thôn Nam Bộ, và thường tự an ủi bằng câu : “ Trời mất, đất đền”. Tuy nhiên, nghề nầy có tính thời vụ, khi nước lụt càng nhiều, đồng ruộng mênh mông nước bạc, thì bông súng càng dài, mập mạp, mềm,và ăn càng ngon hơn. Khi nước rút, là bông súng rụi…người dân không còn thu họach được nữa.Trong thời điểm nầy, người dân có thể mò xuống những đám bông súng vừa rụi, để tìm những củ co ,nằm dưới những gốc bông súng, và dưới lớp đất bùn của phù sa đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi củ co màu đen, to khoảng nửa quả trứng gà, khi nấu ăn thì củ co rất bùi và có hương vị thơm dẽo hơn củ khoai cao. Tùy theo địa lý và thổ nhưỡng của vùng đất, mà củ co thu hoạch được nhiều hay ít, trong một diện tích khoảng 5m2 thì có thể thu hoạch được khoảng từ 5 đến 10 củ co.
Ca dao đồng bằng nam bộ có câu :
1.Chiều về ăn nửa củ co
Nửa củ còn lại dành cho em mình
2. Đói lòng ăn nửa củ co
Người đem vàng nén đổi cho .. không thèm

Hiện nay, trên những cánh đồng của xã Định An và những xã lân cận, nghề thu họach cá và hái bông súng không còn được coi là một nghề kiếm ra tiền trong mùa nước nữa, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chính là : Do nước lũ không cao, và nhiều người thu hoach, nên trên những cánh đồng ở Định An và các xã lân cận cũng hiếm thấy bông súng, hoặc nếu có thì cũng không còn dài và nhiều như những năm khỏang thập niên sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ XX..Bây giờ muốn ăn bông súng -lẫu mắm là cả một sự chuẩn bị công phu và cơ hội, chứ không còn là món ăn thường xuyên như trước nữa.

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
[-] caubaxuan được 2 thành viên cám ơn cho post này:
dieuquang (02-12-2012 04:40 AM), Hoang Oanh (20-03-2013 03:57 PM)
22-10-2011, 10:52 PM (Được chỉnh sửa: 08-11-2012 07:49 AM bởi caubaxuan.)
Bài viết: #3
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
MỜI BẠN VỀ THĂM XÃ ĐỊNH AN
Lê Hoài Lê

1- Mời bạn về thăm - xã Định An.
Quê hương tươi đẹp, quá nồng nàn
Gió chiều vương nhẹ, bờ xanh biếc
Nắng sớm vờn trên, mặt lúa vàng
Trăng sáng đường quê bừng sức sống
Bình minh rộn rã, tiếng trai làng
Gái quê dệt chiếu, bên hiên vắng
Mời bạn về thăm xã - Định An


2- Mời bạn về thăm xã - Định An
Quê hương, nay đã đẹp huy hoàng
Mương Khai làng chiếu, nghề truyền thống
Dầu Bé bán buôn, chợ rộn ràng.
Xóm Thớt vươn lên đời sống mới
Ông Bồi thả lưới - Cữu Long giang
Xếp Nò đặc sản, hương hành lá
Mời bạn về thăm xã - Định An

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
[-] caubaxuan được 3 thành viên cám ơn cho post này:
behai (10-11-2011 09:58 PM), dieuquang (02-12-2012 04:41 AM), Hoang Oanh (20-03-2013 03:57 PM)
22-10-2011, 11:00 PM
Bài viết: #4
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
CÁCH CHẾ BIẾN HẾN 7 MÓN
- Hến xào bầu ( xào hành, xào mướp...)
- Hến xào mặn với sả ớt.
- Cháo hến.
- Hến cuốn bánh tráng – rau sống –nước mắm me.
- Gỏi hến.( cùng với tép, bắp chuối hoặc đu đủ )
- Hến chiên với hột vịt - thịt bầm.
- Hến nướng với mở hành, muối ớt.

NHỮNG CÂU CA DAO VỀ HẾN

Mua hai chén hến xào bầu
Chồng xôm, vợ gắp, con rầu héo hon.


Mua hai chén hến xào bầu
Chồng xôm, vợ gắp, con thầu hết trơn.( Ôm cái chảo trốn mất )


Hến xào sả ớt cho cay
Cơm vừa chín tới, chẳng ai kịp mời.


Hến cuốn bánh tráng với rau
Miệng nói tay cuốn, đưa vào ăn luôn


Hến chiên hột vịt , thịt bầm.
Dù cho no bụng, cũng nằm mà ăn


Dù cho ăn nửa heo quay
Không bằng cháo hến, ngò gai – cần tàu


Hến xào –hến luộc – hến chiên
Ai mà đem đổi trăm tiền cũng không


Hến xào sả ớt cho khô
Cơm ăn mấy chén, mấy tô cho vừa


Lê Hoài Lê

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
[-] caubaxuan được 3 thành viên cám ơn cho post này:
behai (10-11-2011 09:58 PM), dieuquang (02-12-2012 04:41 AM), Hoang Oanh (20-03-2013 03:57 PM)
22-10-2011, 11:08 PM
Bài viết: #5
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
VÀI NÉT VỀ SỰ TÍCH
TÊN GỌI RẠCH BÀ CƯ

Bà Cư tên thật là Đổ Thị Tư con của Ông Đổ Thanh Nhân một tướng lãnh của vua Gia Long Nguyễn Ánh . Ông người gốc ở Mỹ Tho dời về huyện Đông Triều thôn Định Yên lập nghiệp sinh sống .
Gia đình Bà về cất nhà ở trong rạch nhỏ xép Bà Dạy . Ông bà là ông Cư giỏi võ , khai hoang đất làm ruộng rẫy . Thời buổi ấy dân chúng thưa thớt , cây cối um tùm , thú dữ đầy dẩy . Ông có công đánh hổ , bẩy thú , săn bắt chim thú , canh tác khoai ,lúa , bắp ... cuộc sống lần hồi cũng khá giả .
Bà Cư là người nhân đức , thường giúp đỡ bà con lối xóm cơm , tiền khi đói đau . Bà còn săn sóc nuôi dưỡng người nghèo khổ cô đơn già yếu . Bà con ai cũng qúi mến , tôn kính nên đặt tên rạch của bà ở là Rạch Bà Cư .
Đến năm Quý Mùi 1883 , Ông Cư , Bà Cư lần lượt qua đời nhằm năm thứ sáu triều đại vua Tự Đức Dực Tôn Anh Hoàng Đế . Bà hưởng thượng thọ 83 tuổi . Bà mất đi nhưng tên Rạch Bà Cư đời đời còn mãi . Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử , lưu thủ đan tâm chiếu hản thanh . Từ đời xưa đến nay ai mà không biết , miễn còn để lại tiếng tốt “ lưu danh thiên cổ” .
Thời xưa mộ bà xây đá ong , con cháu chôn cất trên một nền cao khoảng 10 mét vuông . Nay thì mộ bà phẳng lì vì thời gian hơn hai trăm năm , hiện nằm tại đất Ông Nguyễn Văn Lương canh tác tại ấp An Lạc , xã Định An . Từ Vàm Rạch Bà Cư đi vào mộ giữa đồng khoảng 300 thước .
Tưởng nhớ về một người hiền đức , nhân hậu dân gian có đề hai câu thơ sau :
“ Khí thiêng sông nước tự nhiên
Rạch Bà Cư ở bia truyền ngàn thu”
.
Thiết nghĩ rằng câu chuyện lịch sử này ,cần được kể cho mọi người biết đến .Là người dân xã Định An tôi rất tự hào về nét đẹp văn hoá cũng như truyền thống nhân nghĩa quê hương mình .
Ghi nhận trên dựa trên tài liệu sưu tầm của Ông Phạm Minh Mẫn qua lời kể của ông Đổ Phú Thuần là hậu duệ của Bà Cư .

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
[-] caubaxuan được 4 thành viên cám ơn cho post này:
behai (10-11-2011 09:57 PM), ANH THƯ (11-11-2011 09:30 AM), dieuquang (02-12-2012 04:41 AM), Hoang Oanh (20-03-2013 03:57 PM)
25-10-2011, 09:09 AM
Bài viết: #6
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
TÌM HIỂU ĐỊA DANH

XÉP NÒ

Người viết: Lê Phùng Xuân


Về thăm xã Định An, bạn thường gặp các địa danh mang tên một nhân vật đặc biệt, hoặc tên một người có liên quan đến địa danh đó như: Cống Bà Nhưn, Xép Bà Dạy, Xép Thầy Thơ, rạch Ông Đạt, cầu Út Quân…. Đa số những cây cầu, con rạch, con xép đều có tên như thế… Tuy nhiên, ở Định An có địa danh mang tên Xép Nò. Chắc các bạn sẽ ngạc nhiên vì một địa danh trên không mang tên người, mà mang tên một sản phẩm của đời sống người dân Nam Bộ, đặc biệt là âm hưởng tiếng Khơ Me .
Ngày 20/10/2010, Tôi cùng với các bạn trong tổ khảo sát, điền dã phục vụ đề tài địa danh lịch sử -Văn hóa địa phương, đến Xép Nò để khảo sát, tìm hiểu….về nguồn gốc của địa danh Xép Nò.
Xuất phát từ UBND xã Định An, rẽ phải, đi qua cầu Mương Khai chạy theo rạch Mương Khai để ra Xép Nò (ấp An Ninh) cách UBND xã khoảng 4 km, đường đi ngoằn ngoèo qua các con rạch, con xép…
Đầu tiên, chúng tôi ghé thăm nhà bác tư Lê Văn Huấn (sinh năm 1917 nhà ở ấp An Ninh cách đường đi bến đò Định An - Bò Ót khoảng 300m) .
Ông cho biết địa danh Xép Nò có đã lâu, nghe ông bà nói đã có tên gọi từ lâu, nhưng không biết có từ thời nào. Dân ở Xép Nò từ lâu sống bằng nghề ruộng rẫy, sau năm 2000 người dân phát triển nghề trồng hành lá, đến năm 2003 có thêm nghề nuôi thủy sản
Ông nói trước đây không biết có người Miên (Khơ me) sinh sống ở đây hay không ? Quanh khu vực nhà ông có bán kính khoảng 200m thì người dân hầu như đều là họ Lê. Sau đó ông giới thiệu cho đoàn đến nhà ông Ba Ngộ ở Xép Nò để tìm hiểu thêm.
Chia tay với bác tư Lê Văn Huấn, đoàn tiếp tục ra cuối Xép Nò (An Ninh) để đến nhà bác tư Nguyễn Văn Phúc sinh năm Tân Mùi 1930 (80 tuổi)
Sau khi biết được mục đích của chúng tôi, Bác Tư cho biết: “ Ở đây gọi là Xép Nò vì trước đây, có lẽ từ lâu lắm rồi có một số người dân ở đầu Xép (nối với sông Hậu Giang) là người Campuchia sống bằng nghề làm Nò bắt cá để sinh sống… Bác tư Nguyễn Văn Phúc cho biết, thời ông nội của Bác là ông Nguyễn Văn Tòng (năm sinh - khoảng năm 1872) kể lại cách đây mấy đời có một số dân người Miên sống ở đây làm Nò để sinh sống… sau khi chết, còn chôn lại 4 cái mã đá ong rất lớn, hiện tại còn di tích ở phía sau vườn ông Hai Ị và ông Bảy Ức. Nên địa danh Xép Nò có lẽ đã có từ rất lâu, có thể từ đầu thế kỷ XIX, đến thời bác Tư ( khoảng năm 1945 ) đầu vàm Xép Nò trở vào, chỉ có khoảng 12 gia đình sinh sống.

Bác Tư Nguyễn Văn Phúc còn cho biết thêm: “ Nghề làm Nò hiện nay không còn gia đình nào ở trong Xép làm nữa… Ở trong xã Định Yên, Định An, hiện nay còn rất ít người biết làm Nò để bắt cá … Bác còn mô tả hình dáng cái Nò đặt cá để chúng tôi hiểu. Bác giải thích : “ Cái Nò cao khoảng 2m, cao hơn đầu người, giống như cái Đó, cái Lọp lớn…. Muốn đặt cá người ta giăng 2 miếng Đăng tre 2 bên, mỗi bên dài khoảng 20m và hẹp dần để hai đầu đăng nối với miệng Nò. Cá bơi theo dòng nước,khi đụng đăng tre sẽ lần theo đăng để vào miệng Nò. Sau mỗi con nước (nước ròng- cạn ) thì người ta thăm Nò, trút cá trong Nò ra.
(Hình ảnh cái Nò)
Bác cho biết Xép Nò dài khoảng 2500m đầu Vàm Xép tiếp với sông Hậu và cuối Xép giáp với kinh 30/4 gần bến đò Định An - Bò Ót.
Chia tay với Bác tư, đoàn chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình, đi dọc theo Xép Nò ra đầu Vàm, ghé nhà Bác Út Võ Văn Chắc (sinh năm Ất Sửu -1925 ) ở gần đầu Vàm Xép.
Bác Út Võ Văn Chắc cho biết địa danh Xép Nò đã có từ lâu, thuở trước Bác Út có hỏi ông Lê Văn Hạc sinh năm 1860 sống ở đầu Vàm Xép. Ông Lê Văn Hạc cũng không biết địa danh Xép Nò có từ thời gian nào.

( CÒN TIẾP )

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
[-] caubaxuan được 5 thành viên cám ơn cho post này:
MinHo (27-10-2011 11:12 AM), behai (10-11-2011 09:57 PM), ANH THƯ (11-11-2011 09:30 AM), dieuquang (02-12-2012 04:41 AM), Hoang Oanh (20-03-2013 03:58 PM)
26-10-2011, 11:03 AM
Bài viết: #7
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
Ông Tám Hạc (ông Lê Văn Hạc) sống ở đầu vàm Xép Nò từ lâu lắm, sau khi vợ chết, ông cất một căn lều nhỏ ở đầu Vàm, sống một mình cách nhà cũ khoảng 1 cây số, hằng ngày ông đan rỗ, xề, thúng…để sinh sống, cơm nước thì có con cháu mang ra mỗi buổi… Theo như bác Út biết ông Tám Hạc là người cao niên nhất xóm- thời bác Út còn nhỏ, mà cũng không biết địa danh Xép Nò có từ thời gian nào, thì địa danh nầy có lẽ có từ thưở xa xưa lắm… Hiện nay dân cư ở hai bên Xép Nò đều sống bằng nghề ruộng rẫy chuyên nghề trồng lúa, thời xa xưa trồng lúa mùa (lúa 1 vụ ), ruộng dán* (nông dân gieo mạ cấy lúa 1 năm 2 vụ) sau này xen kẻ trong hành trong hai vụ hoặc trồng hành suốt năm..
Trở về trên đường đi dọc Xép Nò chúng tôi thấy trên bờ Xép Nò có trồng rất nhiều cây Xoài… bác Út cho biết: đất dọc theo Xép Nò này trước đây của điền chủ Bảy Hia (Nguyễn Văn Hia) ở Định Yên, trồng xoài từ lâu…Trên đường đi dọc theo Xép, chúng tôi thấy có nhiều hộ gia đình đang thu họach hành: Họ bó hành lại thành từng bó nhỏ, phân loại để bạn hàng đến nhận và bỏ mối.
Trở lại khu vực cầu…… ra bến đò Định An. Chúng tôi đến nhà ông Hai Ị, để tìm hiểu về 4 ngôi mộ cổ theo lời hướng dẫn của bác tư Nguyễn Văn Phúc.
Được sự hướng dẫn của anh Lê Hữu Dũng sinh năm 1968, chúng tôi ra đám rẫy phía sau nhà khoảng 300m. Chỉ cho chúng tôi thấy 3 ngôi mộ nằm trên cùng một đường thẳng, mỗi ngôi mộ cách nhau khoảng 10 mét.Có lẽ thời gian chôn 3 ngôi mộ này cách nhau xa, nên tình trạng phân hủy các tảng đá ong trên từng ngôi mộ cũng không giống nhau. Ngôi mộ xa ( Phía tay trái từ trong nhà nhìn ra ), đã bị cỏ mọc che lấp, nền mộ không còn cao so với mặt ruộng như những ngôi mộ khác,bên trên chỉ còn những tảng đá ong nhỏ, phải vạch cỏ ra mới thấy được.
Ngôi mộ giữa, thì nền mộ còn nhô cao so với mặt ruộng, ba thanh trụ chung quanh nền đã bị ngã được chất lên trên mộ, chỉ còn một thanh trụ đứng chơ vơ cao hơm 1m2, ngang khoảng 4dm, dầy 2,5 dm.
Ngôi mộ gần nhất phía tay phải cũng còn một thanh trụ nhưng nền mộ còn chắc chắn hơn, chung quanh còn nhiều tảng đá ong tấn thành nền ngôi mộ. Chúng tôi chỉ xem được 03 ngôi mộ, còn ngôi mộ còn lại thì ở khu vực khác ??? chúng tôi chưa tìm được, sẽ có một chuyến kế tiếp để tìm kiếm tiếp tục ngôi mộ còn lại.
Khi vào trong nhà, chúng tôi có trao đổi thêm với anh Lê Hữu Dũng về nguồn gốc của các ngôi mộ và được anh cho biết: “Theo như lời của ông Cố của tôi kể lại trong gia đình, thì các ngôi mộ nầy đã có trước đời ông Cố của tôi rất lâu, chính những thế hệ trước đời ông Cố của tôi cũng không rõ, khi đến đây sinh sống thì các ngôi mộ nầy đã có từ lâu… và không biết của ai ??? Anh Dũng còn cho biết thêm : “Theo lời của ông bà xưa trong gia đình kể lại, nền của các ngôi mộ nầy trước đây cao hơn mặt ruộng hơn 01 mét, có những thanh trụ cao và vòng thành vững chắc bằng đá ong, theo thời gian nên ngôi mộ hiện nay chỉ cao cao hơn mặt ruộng khoảng 40-50cm .Cách nay 10 năm các cây trụ đã bị xuống cấp, cộng thêm với sự đào chuột, cày bừa và phá hủy vô ý của con người, nên các cây trụ đã bị gãy, được để lại trên mộ như tình trạng hiện tại…
Những người thân trong gia đình anh Dũng cho biết thêm: “ Khi canh tác khu vực chung quanh các ngôi mộ nầy, người ta thường gặp nhiều các mảnh vở sành sứ của người xưa sử dụng như : mảnh chén, dĩa, tô, hũ, thố ..và có những bình bể có hoa văn rất lạ, có hình dáng giống như các bình của người Khờ me sống ở Nam Bộ, và có mãnh vở của các đồ sành sứ Tàu” Để chứng minh, người em của anh Dũng đã nhặt một mảnh vở dĩa Tàu đưa cho chúng tôi xem..
Chuyến khảo sát điền dã kết thúc. Qua chuyến đi, chúng tôi có thêm một cơ sở mới để kết luận :
1.Địa danh Xép Nò, đã có từ rất lâu, có thể có trước thế kỷ XIX, do cư dân sinh sống tại đây ở gần sông Hậu làm Nò bắt cá hằng ngày trong thời gian nông nhàn để tăng thêm thu nhập…Lâu dần, Địa danh Xép Nò được thông dụng và lưu truyền.
2.Cái Nò có phải là tiếng Khờ Me hay không?? và có cư dân người Miên ( Khờ Me ) sinh sống đầu tiên ở nơi đây và khi chết đã chôn lại, di tích còn là 4 ngôi mộ bằng đá ong – còn là một câu hỏi chưa thể trả lời.Với lý do : Các ngôi mộ bằng đá ong này , chưa thể khẳng định là của người Khờ Me và còn nhiều mảnh vở của sành sứ tàu. Điều mà chúng tôi còn trăn trở, thắc mắc là : Dưới lớp ruộng ở xép Nò có bao nhiêu tầng văn hóa đang chồng lên nhau ( Có thể đầu tiên là của những người Khờ Me hoặc thủy Chân Lạp đã sinh sống, kế tiếp là tầng văn hóa của người Hoa, và sau là của người Việt ( Kinh ) qua di tích của các ngôi mộ và các mảnh sành sứ đào được khi canh tác ??? Cũng một câu hỏi mà chúng tôi cần được giải đáp là: - Sự liên quan của các ngôi mộ với ngôi chùa Túy Trúc Cổ Tự như thế nào
?? Ngoài ngôi chùa Túy Trúc Cổ Tự trước đây ở Xép Nò còn có ngôi chùa Miên, ngôi chùa Tàu nào nữa hay không ??? Nếu có, nền của các ngôi chùa nầy nằm ở đâu ??? Có xây chùa mới trên nền của ngôi chùa cũ xưa hay không ???
Câu trả lời vẫn còn ở phía trước.

Lê Phùng Xuân

ruộng dán*:Nông dân nhổ mạ cấy xuống ruộng nên gọi là ruộng dán – như dán mạ trên ruộng -

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
[-] caubaxuan được 5 thành viên cám ơn cho post này:
MinHo (27-10-2011 11:11 AM), behai (10-11-2011 09:57 PM), ANH THƯ (11-11-2011 09:30 AM), dieuquang (02-12-2012 04:41 AM), Hoang Oanh (20-03-2013 03:58 PM)
09-11-2011, 10:39 AM
Bài viết: #8
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
Đình Định Yên (Lấp Vò, Đồng Tháp):
Điểm du lịch di tích hấp dẫn


Đình Định Yên nằm bên cạnh rạch Ngã Cái, thuộc ấp An Khương, xã Định Yên, huyện Lấp Vò (Đồng Tháp). Đấy là điểm du lịch hấp dẫn, vì còn lưu giữ một giá trị kiến trúc nghệ thuật gỗ độc đáo với những thành tựu kiến trúc của người thợ Việt đầu thế kỷ XX đã trau chuốt khắc họa, xây dựng cho ngôi đình.
Những bức tranh chạm trổ, đầu rồng đuôi cá, thành vọng, án thờ, tủ cẩn xà cừ... và sắc thần được vua Tự Đức phong cấp vào ngày 21-11-1952 (âm lịch) tạo cho ngôi đình một kiến trúc uy nghi tôn kính, mang đặc trưng cho đình làng Nam bộ ở Đồng Tháp. Vừa qua, đình Định Yên được UBND tỉnh Đồng Tháp công nhận di tích văn hóa cấp tỉnh. Đình Định Yên thuộc loại kiến trúc nghệ thuật tín ngưỡng dạng hình. Xây dựng vào năm 1909 và hoàn thành vào năm 1912, đình được xây dựng bằng các loại gỗ quý, theo kiểu kiến trúc nội công quốc, lợp ngói âm dương, kèo chạm đầu rồng, lân, cá hóa long...
Trong đình được trang trí các câu liễn đối, hoành phi, bao lam được cẩn ốc xà cừ qua đó đã khắc họa lên một bức tranh sơn thủy hữu tình, nào là mai, lan, cúc, lưỡng long tranh châu, xen lẫn hoa sen, với nhiều bức họa được sơn son phết vàng mang đường nét sắc sảo ca ngợi đất nước con người Việt Nam. Trong đình được phân chia từng nơi thờ cúng trang nghiêm, nơi bái đình, chánh điện, nhà khách và nhà túc. Nơi bái đình được xây theo kiểu thượng lầu hạ hiên (một lầu, hai hiên) được trang trí với các bức hoành phi mang dòng chữ “Đình thành cơ xã”, “Vưu văn Vưu võ...”, “Bảo an Chánh trực”... với nhiều câu đối khá hấp dẫn. Kiến trúc chánh điện xây dựng theo kiểu thượng lầu hạ hiên, xung quanh là vách gỗ bao bọc bởi 3 gian thờ: Thần hoàng thờ ở giữa và tả hữu thờ hai bên, là nơi trang trí các bức tranh sơn mài, hoành phi với nhiều câu đối khác nhau.
Đặc biệt trong di tích đình Định Yên còn lưu giữ lại nhóm giấy có sắc phong của vua Tự Đức, nhóm gốm sứ có bình bông, nhóm gỗ còn lưu giữ nào là thành vọng, bao, trống, mõ, lỗ bộ, 24 tấm biển (hoành phi) mang những dòng chữ khác nhau được khắc họa trau chuốt, các án thờ, long đình, ghế nghi thờ đều được làm bằng gỗ quý được chạm trổ rất công phu.
Hàng năm, đình Định Yên tổ chức 8 lễ hội như Tết Nguyên đán, lễ Khai sơn, lễ Thượng nguơn, lễ Hạ điền, lễ Đoan ngọ, lễ Trung nguơn, lễ Hạ nguơn và lễ Thượng điền. Trong đó có 2 lễ hội tổ chức long trọng là lễ Hạ điền và lễ Thượng điền được tổ chức vào ngày 15, 16 tháng 4 và 15, 16 tháng 11 âm lịch, hai lễ này có ý nghĩa là lễ xuống giống, nhân dân ra đồng khai trương việc cày cấy trong năm, tạ ơn thần nông... tạo mưa thuận gió hòa, cho mùa màng tươi tốt. Hai lễ Thượng điền và Hạ điền diễn ra các nghi lễ: lễ thỉnh sắc, thỉnh sanh, túc yết, đàn cả và lễ hồi sắc. Qua đó tạo cho khách hành hương đến viếng, tham quan để hiểu thêm về nghi thức lễ hội mang tính độc đáo riêng của ông cha ta, là lễ hội mang đậm truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và yêu mến quê hương đất tổ, nhớ ơn tiền nhân dày công khai hoang mở nước, mang đậm nét văn hóa Việt.
Hàng năm đình Định Yên có hàng chục ngàn lượt khách đến viếng, tham quan. (st )

Học Hỏi Hiểu Hành Huân Huệ Hỷ
Thấy Tầm Tri Tập Tiệm Thiền Tu

(Lập trường Tu Tập của bách Hóa Lão Nhân )
THANK YOU
[-] caubaxuan được 4 thành viên cám ơn cho post này:
behai (10-11-2011 09:57 PM), ANH THƯ (11-11-2011 09:25 AM), dieuquang (02-12-2012 04:41 AM), Hoang Oanh (20-03-2013 03:58 PM)
10-11-2011, 09:57 PM
Bài viết: #9
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
Một lần nữa nể phục ông em, sưu tập nhiều tư liệu quá. HayWink. Cố lên.

HeartMẹ già hơn trăm tuổi
Vẫn thương con tám mươi
Heart
THANK YOU
[-] behai được 1 thành viên cám ơn cho post này:
Hoang Oanh (20-03-2013 03:58 PM)
11-11-2011, 09:28 AM (Được chỉnh sửa: 11-11-2011 09:29 AM bởi ANH THƯ.)
Bài viết: #10
RE: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ NHỮNG ĐỊA DANH
Híc híc, hùi năm ngoái con NCKH về đề tài chiếu Định Yên, phải chi có mấy tư liệu này của Bác Ba cũng đỡ khổ Undecided. ứ chịu, ứ chịuDodgyDodgy

Music Sống đơn giản cho đời thanh thản Big Grin
THANK YOU
[-] ANH THƯ được 1 thành viên cám ơn cho post này:
Hoang Oanh (20-03-2013 03:58 PM)
 


Chuyển nhanh:


Đang xem chủ đề này: 1 Khách

Liên hệ | Gốc Quê | Lên trên | Nội dung | Bản rút gọn | Tin RSS