Đánh giá chủ đề:
  • 0 Votes - 0 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
TẢN MẠN NGÀY TẾT GIÁP NGỌ 2014
07-01-2014, 09:13 AM (Được chỉnh sửa: 10-01-2014 06:20 AM bởi dieuquang.)
Bài viết: #3
RE: TẢN MẠN NGÀY TẾT GIÁP NGỌ 2014
Trong các dược liệu cổ truyền, hai khái niệm ngựa và mã thường được sử dụng để chỉ tên nhiều vị thuốc có giá trị, Xin giới thiệu một số thảo dược chính có liên quan đến hai khái niệm này.( cập nhật từ nhiều tài liệu cây thuốc y dược trên net )

Mã tiên thảo hay còn gọi là cỏ roi ngựa (Verbena officinalis L.),
[Hình: attachment.php?aid=7701]
họ cỏ roi ngựa (Verbenaceae), trông hình dáng giống như cái roi ngựa. Vị thuốc là bộ phận trên mặt đất, thu hái lúc cây sắp ra hoa, phơi khô hoặc sấy khô, với liều 6 - 12g dùng trị các bệnh sốt rét, lỵ, ngứa lở hạ bộ, sưng đau tuyến vú, mụn nhọt, bế kinh, khí hư bạch đới.

Mã kế còn gọi là đại kế (Circus japonicus (DC.) Maxim),ô rô
[Hình: attachment.php?aid=7702]
họ Cúc (Asteraceae), dùng toàn cây. Vị thuốc có vị ngọt, đắng, tính mát. Trị thổ huyết, máu cam, trĩ ra máu, tiểu tiện ra máu, băng huyết, chấn thương chảy máu. Khi dùng để cầm máu thường được sao đen. Trị băng huyết và kinh nguyệt quá nhiều: mã kế 20g, bồ hoàng 8g, cả hai vị này đều sao đen, táo 10 quả. Dùng dưới dạng nước sắc, ngày 1 thang. Uống liền 5 - 7 thang.

Mã xỉ hiện còn gọi là rau sam (Portulaca oleracea L.),
[Hình: attachment.php?aid=7703]
họ Rau sam (Portulacaceae), mọc hoang hoặc được trồng để làm thuốc hoặc làm rau ăn. Có thể dùng tươi hoặc khô để trị lỵ trực khuẩn, giun kim, dưới dạng nước sắc 15 - 20g ngày. Dùng ngoài, trị ngứa lở, nước ăn chân, lấy cây tươi rửa sạch, giã nát, chấm vào chỗ bị bệnh, ngày 1 - 2 lần sau khi đã rửa sạch chỗ bị bệnh và lau khô.
Cây mã đề.

Mã đề còn gọi là Xa tiền thảo (Plantago major L.), họ Mã đề (Plantaginaceae). Hai chữ mã đề là ám chỉ “móng chân của con ngựa”.
[Hình: attachment.php?aid=7704]
Mã đề cho nhiều vị thuốc hay, toàn cây có tác dụng lợi tiểu, lợi mật, chống viêm loét, trừ đờm, chống ho, chống lỵ... Dùng trị bí tiểu, tiểu vàng, đỏ, tiểu ra máu, sỏi đường tiết niệu, viêm gan, mật... Từ mã đề có thể thu được các vị thuốc: bông mã đề, cụm hoa, hạt mã đề (xa tiền tử) có cùng tác dụng: lợi tiểu, lợi mật...

Mặt khác, xa tiền tử còn chứa nhiều chất nhầy, có khả năng bao phủ các vết loét, nhất là ở dạ dày, tá tràng. Do vậy, vị thuốc này cũng như tịch chiết của lá tươi của nó được dùng để trị viêm loét dạ dày, tá tràng rất tốt. Các vị thuốc của mã đề có thể dùng dưới dạng nước sắc, ngày 10 - 16g. Trị sỏi tiết niệu, viêm nhiễm đường tiết niệu: mã đề, tỳ giải mỗi vị 20g, kim tiền thảo 40g, trạch tả uất kim, ngưu tất mỗi vị 12g, kê nội kim 8g. Sắc uống ngày 1 thang trước bữa ăn 1,5 - 2 giờ.

Mã đề nước còn gọi là Trạch tả (Plantago plantago- aquatica L. tên đồng danh Alisma orientalis Sam. Juzep.), họ Trạch tả (Alismataceae). Gọi là mã đề nước vì lá của cây trạch tả trông rất giống với lá của cây mã đề, song cây này lại mọc ở dưới ruộng nước.

Y học cổ truyền dùng thân rễ của trạch tả được thu hái vào khoảng tháng 4 - 5 hàng năm để làm thuốc chữa các bệnh phù thũng, viêm thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó khăn, đái ra máu với liều 6 - 9g/ngày, dạng thuốc sắc hoặc thuốc tán. Trị âm hư hỏa vượng, nóng bốc từng cơn, đau đầu hoa mắt, chóng mặt: trạch tả, mẫu đơn bì, bạch phục linh, hoài sơn mỗi vị 6g, sơn thù du 8g, thục địa 16g. Dùng dưới dạng thuốc sắc, ngày 1 thang hoặc thuốc hoàn, ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 12 - 16g.

Ké đầu ngựa: Còn mang các tên khác là thương nhĩ, xương nhĩ.
[Hình: attachment.php?aid=7703]
Cây cao chừng 1 đến 2 mét, thân có khía rãnh, lá mọc so le, phiến lá dạng tam giác cong, mép răng cưa, có chỗ khía hơi sâu thành 3-5 thùy, phủ lông ngắn cứng. Quả già hình thoi, có móc, trẻ em đùa nghịch tung bỏ vào tóc nhau rất khó gỡ ra. Thuốc từ cành, lá, quả mang vị ngọt, hơi đắng, ấm, tính bình, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, chữa bướu cổ, trị tê bại, phong hàn, mẩn ngứa, mụn nhọt, viêm mủ...

Mã liễu: Còn có tên khác là nghể răm.
[Hình: attachment.php?aid=7709]
Cây thân ngắn, mềm, lá hình thoi dài, mọc hoang ở những vùng trũng hoặc ẩm. Đem chế thành thuốc mang vị hơi đắng, cay, ấm, có tác dụng giải độc thức ăn, chữa sưng, lở mụn nhọt, kích thích tiêu hóa, chữa đầy hơi, đau bụng...

Mã liên an: Còn mang các tên khác là hà thủ ô trắng, dây sữa bò.
[Hình: attachment.php?aid=7708]
Cây thân dây có củ, lá to mỏng, mọc leo hoặc lan trên đất, phổ biến ở miền trung du. Tương truyền, ngày xưa một ông tướng đang cưỡi ngựa đi đường thì bị trúng cảm, ngã bất tỉnh, nhưng may được thầy thuốc gần đó dùng một loại cây cứu chữa khỏi. Ông tướng đã biếu thầy thuốc cả ngựa lẫn yên để tạ ơn, từ đấy loài cây này mang mã liên an (nghĩa là "ngựa liền yên"). Được dùng tươi hoặc sấy khô, (toàn bộ lá dây, củ của nó đều có thể làm thuốc). Thuốc mang vị đắng, mát, trị chứng đau dạ dày, đau bụng, viêm ruột, rắn độc cắn, lở loét.

Mã thầy: Còn có các tên khác là củ năn, bột tề.
[Hình: attachment.php?aid=7707]
Cây mọc dưới nước, củ khá to, thân cây không lá, tròn dài và chia đốt. Củ Mã Thầy giàu chất dinh dưỡng, là thức ăn rất mát, bổ và là vị thuốc tiêu khát, chữa bệnh về gan, tả, thương hàn...

Mã tiền: Còn mang tên khác là củ chi.
[Hình: attachment.php?aid=7706]
Có hai loài: thân gỗ và thân dây leo. Cây thân gỗ mọc ở các tỉnh miền Nam, cao 5 - 12m, vỏ xám, khi non có gai, lá mọc đôi, cuống ngắn, phiến lá bầu dục với hai đầu hơi nhọn. Còn cây thân dây leo lại chỉ thấy ở các tỉnh phía Bắc, thân leo ngoằn ngoèo với đường kính 10 - 15cm, chiều dài 30 - 40m. Cả hai đều cho quả có nhiều công dụng y dược nhưng lại chứa chất strychnin rất độc. Vì vậy, khi quả chín, người ta thu nhặt, lấy hạt và phải chế biến theo cách đặc biệt rồi mới chế thành thuốc. Thuốc có vị hơi đắng, tính lạnh, làm khỏe gân cốt, thông kinh lạc, trị phong thấp, tê bại. Y học hiện đại dùng hạt mã tiền điều chế được nhiều loại thuốc kích thích thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa...

Rượu hải mã

[Hình: attachment.php?aid=7705]
Từ trước đến nay, cá ngựa vẫn được coi là vị thuốc cứu tinh cho các đấng mày râu có trục trặc về sinh lý. Y học cổ truyền đã dùng cá ngựa phối hợp với các vị thuốc khác trong nhiều bài thuốc ngâm rượu để bổ dương.
Tuy nhiên, ít ai biết rằng, cá ngựa cũng rất tốt cho cả phụ nữ. Sau đây, xin giới thiệu một số cách sử dụng cá ngựa hiệu quả cho cả hai giới.
Ngâm theo cách sau sẽ có công dụng bổ thận tráng dương (mạnh sinh lý, kích thích sự giao hợp, kéo dài thời gian giao hợp), điều khí hoạt huyết:

Dùng 50 gr hải mã, mổ bỏ nội tạng, sao vàng, giã nát, 20 gr nhân sâm, 20 gr lộc nhung, 20 gr dâm dương hoắc, cùng với 50 gr ba kích, 20 gr đỗ trọng, 20 gr câu kỷ tử, 30 gr long nhãn, 20 gr ngưu tất, 10 gr phá cố chỉ và 5 lít rượu gạo 40 độ.
Tất cả đem ngâm chung trong 15 ngày. Cứ 5 ngày thì lắc bình rượu một lần để hoạt chất tan đều.
Chiết lấy rượu thuốc, ép bã thuốc cho ra hết rượu, để 2 ngày cho lắng cặn, lọc lấy rượu cho vào bình thủy tinh, hoặc bình sành, sứ đậy kín để dùng từ từ (ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ (30 ml), trước bữa ăn), để chủ trị liệt dương, di tinh, thần kinh yếu... Nhưng, không dùng cho phụ nữ có thai.


File đính kèm Thumbnail(s)
                                   
THANK YOU
[-] dieuquang được 3 thành viên cám ơn cho post này:
MyHang (07-01-2014 12:51 PM), baothai (08-01-2014 12:10 AM), langtrang (08-01-2014 05:48 PM)
 


Các bài viết trong chủ đề này
RE: TẢN MẠN NGÀY TẾT TA - dieuquang - 07-01-2014, 08:04 AM
RE: TẢN MẠN NGÀY TẾT GIÁP NGỌ 2014 - dieuquang - 07-01-2014 09:13 AM

Chuyển nhanh:


Đang xem chủ đề này: 1 Khách

Liên hệ | Gốc Quê | Lên trên | Nội dung | Bản rút gọn | Tin RSS