Đánh giá chủ đề:
  • 0 Votes - 0 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
NEW TOPIC'S DQ
13-05-2020, 04:42 PM
Bài viết: #271
RE: NEW TOPIC'S DQ
VÔ THƯỜNG

Cái gọi là niềm vui mãi mãi thầy ơi,
Con cứ tìm hoài tìm hoài sao chẳng thấy

Ở chốn nhân gian
Các cuộc vui rồi cũng tan theo thời gian năm tháng…
Những người bạn, người thân – một ngày họ cũng giận hờn rồi lại rời bỏ ta đi…
Tất cả chỉ còn trong ký ức…
Ký ức rồi cũng nhạt nhòa theo dòng thời gian…

Ở tự thân…
Này thì mua quần áo đẹp, này thì đầu tóc bóng lộn rộn ràng…
Này thì kiến thức cao siêu, này thì tiền nhiều rủng rỉnh đầy túi…
Tất cả tất cả có sá là gì
Khi một ngày nhìn vào gương thấy bản thân vẫn ôi xấu xí
Thấy những sân hận, rầu lo, những hờn ghen những đố kỵ vẫn cuồn cuộn chảy về như bão lớn đang qua…

Mệt mỏi và chán nản quá thầy ạ, hai hôm nay con tìm kiếm niềm vui trong cuộc sống thế tục nhưng tìm mãi không thấy. Những niềm vui thoắt đến lại thoắt đi, rồi sự chán nản lại tới —> Niềm vui/ nỗi buồn/sự chán nản cứ thay thế nhau chảy vào tâm liên tục.

Rồi con nghĩ và nhớ những người bạn cũ, những người thân cũ. Con thấy không ai ở với mình lâu cả, người ta rời xa mình bằng rất nhiều cách khác nhau. Có người hiểu lầm giận hờn rời xa mình, có người không hiểu lầm không giận hờn cũng rời xa mình… Họ rời xa con với muôn ngàn lý do, có những lý do con biết, có những lý do con lờ mờ biết, có những lý do con không biết bao giờ… Kết cục lại họ không ở bên mình.

Tìm mãi tìm mãi, chỉ thấy cái gì cũng biến đổi, vậy mà tại sao con vẫn đau khổ khi thấy sự thay đổi thầy nhỉ??? Lạ thật!


Con yêu quý
Con hỏi thầy rằng: Biết mọi thứ là biến đổi sao con vẫn khổ,
Khi chứng kiến trong đời những sự thay đổi liên tục xảy ra?

Vì con ạ,
Đau khổ của con đến từ kỳ vọng
Vào những thứ vô thường, biến đổi luôn luôn
Ngày nào trong con vẫn còn kỳ vọng vào những thứ vốn vô thường
Thì dù tu tập và hiểu biết nhiều như một học giả uyên thâm
Con vẫn chỉ như một đứa bé bị bỏ quên, trên một chiếc bè giữa biển cả mênh mông
Chỉ đợi những cơn sóng dữ của vô thường cuộn lên và nuốt chửng


Có ích gì đâu khi con thực hành Phật Pháp
Mà trong lòng không thực sự nổi lên nỗi sợ vô thường
Trên đường tu hành thầy đã đi và gặp những bậc tiếng tăm
Thượng toạ, đạo sư, ghese, rinpoche, pháp vương, tôn giả…
Than ôi, gần như không có ai trong số họ
Cảm thấy sợ vô thường là điều quan trọng tối cao
Cho một người muốn bước chân đúng đắn vào con đường

Vì thế ngày nay hầu hết mọi người tu hành trong ảo tưởng
Thích được học về thiền chỉ, quán, thần chú, các phép du già …
Thích dịch sách và ca ngợi về Vô ngã, Bồ đề tâm, Phật tính, Thân cầu vồng, Giác tánh nguyên sơ…
Trong khi nỗi sợ vô thường vẫn chưa thực sự nổi lên trong tâm họ
Điều này chẳng khác nào xây một ngôi nhà cao tầng nhưng không xây móng
Không chóng thì chày sự sụp đổ sẽ phải xảy ra

Dù thầy chỉ là một người nhỏ bé, cũng đang tu
Nhưng nếu con muốn lắng nghe, thì đây là những lời tâm huyết:
Đừng đi xa hơn vào con đường thực hành Phật pháp
Nếu trong lòng con chưa thường trực nổi lên nỗi sợ vô thường
Điều đó chỉ làm con tu hành trong ảo tưởng và chắc chắn sẽ dừng lại giữa đường!

Có ích gì những việc con đang làm?
Khi chúng chỉ tích tập thêm duyên nghiệp để con trôi lăn trong luân hồi sinh tử
Rồi con sẽ phải xa rời tất cả của cải, tiếng tăm, gia đình, bè bạn… vào một ngày nào đó
Tại sao con còn kỳ vọng vào những gì con đang cố gắng tạo ra trong cuộc đời này?

Có ích gì những lời con nói hay không?
Rồi còn ai sẽ thực sự nghe lời con nếu đủ duyên cho việc vô lường xảy đến
Đáp lại những lời ôn hoà và ý tốt của con là sự sân hận, coi thường hay ghen tị
Tại sao con còn kỳ vọng vào kết quả những gì con nói ra trong cuộc đời này?

Có ích gì những suy tư và toan tính của con?
Đã bao đời nay và ngay cuộc đời này con cũng không ngừng toan tính
Nhưng có kế hoạch nào đủ làm cho con không còn đau khổ khi sự vô thường kéo đến?
Tại sao con còn kỳ vọng vào sự an toàn của những phương án con vạch ra trong cuộc đời này?

Thầy không bảo con đừng làm, đừng nói, đừng toan tính nữa hay không
Thầy chỉ nhắc, con chắc chắn sẽ phá sản ở bất cứ cái gì con đang kỳ vọng
Sức khoẻ, tiền tài, tình cảm, danh dự hay thể diện…
Muốn giữ hoặc muốn có cái gì, con sẽ mất cái đó đi thôi
Bởi thế con ơi,
Hãy bỏ đi ảo tưởng rằng: con có thể kỳ vọng vào những thứ vốn vô thường

Trong thời đại của máy tính, lập trình, và những kế hoạch kinh doanh
Người ta có ảo giác rằng sẽ kiểm soát được việc mình làm miễn là cố gắng
Thầy cũng là doanh nhân, sống giữa chỗ của chỉ tiêu, phương án và kế hoạch
Nơi người ta kỳ vọng sẽ thành công, làm nên những “doanh nghiệp trường tồn”
Nhưng hãy tự hỏi rằng, có cái gì trường tồn thực sự hay không?
Khi thực tế mọi việc luôn sẵn sàng vượt ra ngoài kiểm soát
Đã bao doanh nghiệp thành công hôm qua rồi hôm nay phá sản
Bởi thế con ơi,
Hãy bỏ đi ảo tưởng rằng: con có thể kiểm soát những thứ vốn vô thường

Mỗi năm ở nước ta, có 10.000 người chết vì tai nạn giao thông
Cứ mỗi ngày, có 30 gia đình chào nhau vào buổi sáng và buổi tối về không còn cha, con, anh, em, chồng, vợ..
Con có lý do gì để nghĩ mình chắc chắn sẽ không nằm trong số đó?
Tại sao con còn chưa sợ rằng,

Con sẽ không kịp sống để tiếp tục đi hết con đường?

Bao nhiêu người viết sách ca tụng những tấm gương
Của những bậc đại giác ngộ, nào là thần thông và trí tuệ…
Nhưng hầu như không ai nhớ các vị có chung một điều đơn giản:
Là tu hành khi trong tâm thực sự nổi lên cảm giác sợ vô thường

Con hãy nghĩ xem,
Điều gì khiến Đức Phật không thể ngủ và bỏ nhà đi vào lúc giữa đêm?
Điều gì khiến Ngài Milarepa chịu đựng 9 năm khổ sở để chờ ngày được thầy dạy dỗ?
Điều gì khiến Lục tổ Huệ Năng bỏ cả mẹ già đơn côi để đi tìm đường giác ngộ?
Điều gì khiến Đức Longchenpa không muốn dành một phút cúi xuống nhổ cây gai, dù chân rướm máu mấy năm trời?

Trong thời đại ngày nay, có mấy người sánh được với các vị ấy hay không?
Dù có bao nhiêu người tự xưng là tu hành đắc đạo và đi truyền pháp!
Nhưng không có mấy người thực sự sợ vô thường, và giúp người khác thấy sợ vô thường là vô cùng quan trọng
Hãy nghĩ kĩ về điều trên, và kinh sợ khi thấy cơ hội hiếm hoi gặp được chánh Pháp, giữa thời mạt pháp này

Có thể con nghĩ rằng “Vô thường ư, có gì đâu mà phải nhắc đi nhắc lại thế”, phải không?
Nhưng ngoài những điều vừa nói trên, thầy không có gì hơn để truyền cho con cả
Trong thực tế, thầy là một người bình thường đang cố tu hành sao cho đúng đắn
Nên hãy nhận lời xin lỗi của tôi,
Nếu ai đó đọc và thấy nó không phù hợp với trí thông minh và sự tu hành khéo léo của mình
Nếu không phải là một người như vậy, xin hãy nhớ lời của đức thánh Atisha dành cho đại đệ tử trước lúc ra đi:
“Hãy từ bỏ cuộc đời này, trong tâm trí của con”, đó là thực hành quan trọng nhất !

Đây là những lời tâm huyết gửi tới con, mong cho con cố gắng
Đi được bước đầu tiên: “sợ vô thường”, trên con đường nhận ra bản tính trong suốt đích thực của mình

Thật tốt lành, mọi thứ thật tốt lành!
THANK YOU
29-06-2020, 08:21 PM
Bài viết: #272
RE: NEW TOPIC'S DQ
THIỀN TỊNH MẬT dung thông qua hình ảnh đài cửu phẩm Liên hoa của Phật giáo Trúc Lâm

TS. Mai Thị Thơm
Giảng viên Viện Trần Nhân Tông, ĐHQGHN

1. Dẫn nhập

Thiền – Tịnh – Mật dung thông là một trong những nét đặc trưng của Phật giáo Việt, Thiền tông Việt nói chung, Thiền phái Trúc Lâm Việt nói riêng. Sự dung thông của ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật được thể hiện ở nhiều phương diện. Hoặc ở phương diện tu chứng tự thân, hoặc ở phương diện hoằng pháp lợi sinh; hoặc ở góc độ Tôn giáo tín ngưỡng, hoặc ở góc độ chính trị xã hội… Giá trị thiết thực, sức ảnh hưởng của sự dung thông Thiền – Tịnh – Mật đối với người học Phật và xã hội Việt suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo bản địa Việt rất rõ ràng. Đài Cửu phẩm liên hoa của Thiền phái Trúc Lâm là một biểu hiện cụ thể, sống động nhưng rất đặc biệt cho tinh thần dung thông Thiền – Tịnh – Mật. Bài viết xin tìm hiểu hình ảnh đó với những nội hàm chung riêng của sự dung thông Thiền – Tịnh – Mật.

2. Thiền – Tịnh – Mật dung thông trong Phật giáo Việt và Thiền tông Việt.
2.1. Thiền – Tịnh – Mật dung thông trong cội nguồn Phật giáo

Thiền – Tịnh – Mật dung thông trong Phật giáo Việt và Thiền tông Việt vốn có cội nguồn từ trong ngôi nhà chung của Phật giáo. Bởi Thiền – Tịnh – Mật dung thông là hiện tượng rất tự nhiên trong Phật giáo. Hiện tượng này được hình thành và phát triển không ngừng trong suốt quá trình truyền bá của Phật giáo ngay trong quốc gia Ấn Độ với ba thời kỳ Nguyên thỉ – Bộ phái và Đại thừa, cũng như ở các nước Phật giáo thuộc hai hệ Nam truyền và Bắc truyền kể từ khi Phật giáo du nhập. Sự dung thông đó xét từ nội hàm vốn có, cơ bản nhất của cả ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật như ý nghĩa, phương pháp tu tập và mục đích đạt đến, thể hiện rất rõ ràng.
Về mặt ý nghĩa, Thiền chính là Định trong Tam học: Giới – Định – Tuệ của Phật giáo. Do vậy, dù là Phật giáo thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế hay Phật giáo thời Chính pháp – Tượng pháp – Mạt pháp, Thiền luôn có mặt trong đời sống người học Phật. Về phương pháp tu tập, đối với Phật giáo Nguyên thỉ – Bộ phái, Tứ thiền (Sơ thiền – Nhị thiền – Tam thiền – Tứ thiền) với hành trình: “Định sinh hỷ lạc, Ly sinh hỷ lạc, Ly hỷ diệu lạc và Xả niệm thanh tịnh” được thể hiện bằng các phép Chỉ – Quán: Thập lục niệm điều tức (hơi thở), Tứ niệm xứ, Cửu tưởng, Ngũ đình tâm… là phép tu chung, không thể thiếu. Quả vị chứng đắc của Thiền quán chính là bốn quả Sa môn: Tu đà hoàn – Tư đà hàm – A na hàm – A la hán, mà nội hàm của bốn quả ấy chính là sự giải thoát khổ đau của dòng sinh tử luân hồi trong ba cõi (Tu đà hoàn còn 7 lần sinh tử ở cõi Dục, Tư đà hàm còn 1 lần sinh tử ở cõi Dục, A na hàm còn sinh tử ở cõi Sắc, A la hán không còn sinh tử cả trong Vô sắc giới). Đối với Phật giáo Đại thừa, Thiền là 1 độ trong Lục độ của Bồ tát: Bố thí – Trì giới – Nhẫn nhục – Tinh tấn – Thiền định – Trí tuệ. Quả vị hướng tới của Bồ tát là Phật. Không chỉ giải thoát sinh tử luân hồi cho riêng mình, mà còn đầy đủ diệu hạnh để giải thoát sinh tử cho vạn loại. Đối với Thiền tông Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông Trung Quốc và các nước ảnh hưởng, hạnh Bồ tát cũng là hạnh đức chính của người học Phật, quả vị chính cũng là quả Phật, và còn được thành tựu ngay trong thân này “Tức thân thành Phật”.

Về yếu tố Tịnh, tức pháp môn lấy Phật làm đối tượng chính yếu để quán niệm, quả vị chứng đắc chính là sự giải thoát sinh tử luân hồi nhưng cõi nước hướng tới không phải là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, mà chính là một cõi Phật cụ thể được xây dựng từ hạnh nguyện của Bồ tát trong hành trình “Thượng cầu hạ hóa”. Từ thời Phật tại thế, Tịnh độ được thể hiện trong Lục niệm: Niệm Phật – Niệm Pháp – Niệm Tăng – Niệm Giới – Niệm Thí – Niệm Thiên, ghi nhận một cách chung chung về quán niệm Phật. Vào thời Phật giáo Bộ phái và thời Phật giáo Đại thừa sơ kỳ, tiếp thu tư tưởng “Nước chúa” của văn hóa Ai Cập – Ba Tư, Tịnh độ pháp được kiến lập một cách toàn diện, đầy đủ cả phương pháp thực hành lẫn cõi nước hướng tới. Cụ thể nhất là ba loại Tịnh độ: Tịnh độ của Phật A Súc nước Diệu Hỷ phương Đông, Tịnh độ của Bồ tát Nhất sinh bổ xứ Di Lặc ở Đâu Suất thiên và Tịnh độ của Phật A Di Đà ở phương Tây. Ngoài ra còn có một Tịnh độ tại tâm “Tâm tịnh Phật độ tịnh” như ghi nhận trong hàng loạt kinh điển Đại thừa thời kỳ đầu: Tâm tịnh là Tịnh độ, thế giới Ta bà tức là Tịnh độ Thường Tịch Quang của kinh Duy Ma Cật, Tịnh độ Linh Sơn của kinh Pháp Hoa, thế giới Liên Hoa Tạng của kinh Hoa Nghiêm, Tịnh độ Mật Nghiêm của kinh Mật Nghiêm… Tịnh độ tông của Trung Hoa và các nước ảnh hưởng, lấy Tịnh độ A Di Đà làm chính yếu, thiết lập một cách chi tiết hơn nữa việc niệm danh hiệu Phật A Di Đà và cầu vãng sinh về cõi Cực Lạc.

Về yếu tố Mật, tức pháp môn lấy Đà la ni – Chân ngôn làm đối tượng thực tập chính, hỗ trợ rất nhiều trong quá trình tự tu và độ tha của người học Phật. Bởi từ thời Phật Thích Ca tại thế, “hộ thân” bằng Đà la ni là phép dường như rất cần thiết đối với hàng Sa môn thường tu tập, sinh hoạt trong chốn thâm sơn cùng cốc – nơi mà lam chướng, độc khí, trùng độc, thú dữ… luôn hiện hữu. Ngoài ra, trong hành trình hoằng truyền Phật pháp, việc tiếp độ và hàng phục đệ tử xuất thân từ Bà la môn giáo không thể thiếu vắng Mật pháp – pháp môn phổ biến trong tôn giáo này. Sau khi Phật Niết bàn, Mật thừa Ấn Độ trải qua ba thời kỳ: Tạp mật – Thuần mật – Tả đạo mật. Mục đích không ngoài tự độ độ tha, phương tiện và cứu cánh: Nhương tai, tăng ích, điều quỷ, “Tức thân thành Phật”. Phương pháp được xây dựng một cách chi tiết từ triết lý đến nghi quỹ đàn tràng và được thực hiện một cách nghiêm cẩn bằng Tam mật tương ưng: Thân kiết ấn – Khẩu tụng niệm Đà la ni – Ý quán tưởng cảnh giới Thai tạng, Kim cang… Tất cả thể hiện một cách sống động trong hệ thống kinh điển Mật thừa thuộc Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền.
Có thể thấy, dù nội hàm nghĩa lý cơ bản của ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật có sự khác biệt nhiều ít nhưng về phương pháp thực hành đều phải lấy Chỉ – Quán làm chính mà đối tượng của Chỉ – Quán có thể là Danh hiệu Phật, Đà la ni hay Tứ niệm xứ…, mục đích cuối cùng là độ mình độ muôn loài giải thoát nổi khổ đau của dòng sinh tử luân hồi. Điều này vừa thống nhất với hành trình tu chứng và bản hoài độ sinh của Phật Thích Ca Mâu Ni, vừa đáp ứng được nhu cầu truyền bá và phát triển đạo Phật qua các thời kỳ và qua nhiều vùng miền. Hơn thế nữa, cả ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật đều được ghi nhận một cách sống động, cụ thể, bổ sung không ngừng trong hệ thống kinh điển chung riêng của Phật giáo kể từ khi vua Asoka cho khắc bản Tam tạng và cử đoàn truyền giáo ra ngoài địa phận Ấn Độ.

2.2. Thiền – Tịnh – Mật dung thông trong Phật giáo và Thiền tông Việt
Phật giáo được du nhập vào đất Việt từ rất sớm, bằng cả hai hệ thống Nam truyền và Bắc truyền, với minh chứng sống động là sự hiện diện của Tam tạng giáo điển và hành trạng của Tăng chúng. Ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật vì thế không chỉ hiện hữu trên quốc gia này, dung thông, tịnh hành trong tinh thần chung của Phật giáo cội nguồn, mà còn được quyết định bởi yếu tố địa lý văn hóa ngã ba ngã bảy tự nhiên đặc thù của đất Việt. Các bản kinh dịch, các tác phẩm, Tăng chúng hiện hữu từ thế kỷ I – II trở đi như Pháp Hoa tam muội, Đạo hành bát nhã, Thập địa, Vô lượng thọ, Pháp kính, An ban thủ ý, Lục độ tập, Tạp thí dụ, Cựu tạp thí dụ…, vừa thể hiện Thiền của Thanh văn thừa, Bồ tát thừa, Phật thừa; vừa ghi nhận Tịnh độ của Phật A Di Đà và Tịnh độ của Bản tâm thanh tịnh, nhưng chưa phải là Tịnh độ tông; vừa thể hiện yếu tố Mật thừa thuộc Tạp mật trừ tai, tăng ích, điều quỷ… nhưng chưa có yếu tố “tức thân thành Phật” của Thuần Mật thuộc Mật tông. Các Tăng sĩ Phật Quang trong chuyện Nhất dạ trạch, Mâu Bác trong Lý hoặc luận, Khâu Đà La trong hệ thống Tứ pháp thời Sĩ Nhiếp, Khương Tăng Hội… đều thể hiện rõ sự dung thông Thiền – Tịnh – Mật đó qua trước tác và việc độ sinh như trị bệnh, trừ hạn hán, cầu xá lợi Phật… Sự dung thông, tịnh hành Thiền – Tịnh – Mật tiếp tục được kéo dài suốt dòng lịch sử Phật giáo Việt với các thời kỳ: Bắc thuộc chống Bắc thuộc, Đại Việt, Đại Nam và Việt Nam mà các nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt đều thừa nhận như trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, Việt nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, Lược sử Phật giáo Việt Nam của Thích Mật Thể…

Một điều đáng quan tâm là, sự dung thông, tịnh hành Thiền – Tịnh – Mật của Phật giáo Việt khá thống nhất, xuyên suốt kể từ khi du nhập. Nghĩa là, tại Ấn Độ – Trung Hoa… Thiền – Tịnh – Mật vừa có sự dung thông, đan cài trong ngôi nhà Phật giáo chung, nhưng vừa được tồn tại với tư cách tông phái độc lập: Thiền tông – Tịnh độ tông – Mật tông. Thậm chí, sự tồn tại độc lập đó còn được tuyệt đối hóa, dẫn đến không ít lần kích bác nhau, đặc biệt là các Tông này trong Phật giáo Trung Hoa. Trong khi đó ở Việt Nam, Thiền là tông phái chính danh duy nhất tồn tại với trụ xứ, giáo điển tu chứng, Tăng chúng truyền thừa, Mật – Tịnh chỉ là những yếu tố hiện hữu trong hạnh nguyện tự độ độ tha, được thể hiện qua hầu hết các phương diện cơ bản: Tôn giáo, chính trị, xã hội, văn hóa, quân sự, giáo dục… của các Thiền sư. Điều này có thể tìm thấy trong lịch sử của các Thiền phái: Pháp Vân – Kiến Sơ – Thảo Đường – Trúc Lâm – Lâm Tế – Tào Động… qua hệ thống Pháp bảo: Tượng đầu tịnh xá, Đại phương quảng tổng trì, Viên giác, Pháp hoa, Hoa nghiêm, Vô lượng thọ, A di đà, Kim cang tràng đà la ni, Phật đỉnh tôn thắng đà la ni, Diệu môn phổ hiền … và qua hành trạng của Tăng bảo. Cụ thể như các Thiền sư phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông tuy trong hành trình tu chứng hầu hết đều thông qua Thiền quán để thành tựu “Minh tâm kiến tính” như Tam quán trong Pháp Hoa, Hoa nghiêm, Bát nhã, Viên giác…, nhưng bên cạnh đó vẫn thực hành các pháp môn Mật thừa như Tổng trì tam ma địa trong kinh Đại thừa phương quảng tổng trì mà Tổ sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch, hay Đại bi tâm đà la ni, Diệu môn phổ hiền của Hoa nghiêm… để hỗ trợ sự nghiệp đánh Bắc dẹp Nam của các vua chúa – tướng lĩnh, cầu mưa cầu tạnh, nhương tai tăng ích, cầu thọ chúc phúc… trong các lễ Hội đèn Quảng Chiếu, Phật Đản, Vu Lan, Chuyển Đại tạng kinh…, đồng thời cũng không quên việc niệm Phật A Di Đà cầu sinh Tịnh độ dù chưa phổ biến trong hành trình tự độ và hoằng truyền tông phái.

Thiền phái Trúc Lâm, sau đó là Trúc Lâm – Lâm Tế – Tào Động…, yếu tố Thiền vẫn được kế thừa từ Thiền pháp vốn có của đất Việt và Trung Hoa phù hợp với từng thời đại. Trong khi đó, yếu tố Tịnh độ thì “Tịnh độ tại tâm” được nhấn mạnh ở thời Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông như “Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc”[2]…, và Tịnh độ A Di Đà thì bắt đầu được thịnh từ Nhị tổ Pháp Loa, Tam tổ Huyền Quang trở đi, đặc biệt thời kỳ thịnh hành của phái Trúc Lâm – Lâm Tế, rất nhiều dịch phẩm chuyên của Tịnh độ như Kinh A Di Đà, kinh Quán Vô lượng thọ… được dịch, diễn Nôm, hệ thống tượng liên quan đến Tịnh độ Di Đà… được đúc tạo và thờ phụng chung riêng, hệ thống nghi quỹ, nghi thức tụng niệm cũng không ngừng hoàn thiện trong Thiền viện – chùa Phật … đáp ứng nhu cầu niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ A Di Đà của người học Phật nói riêng và xã hội nói chung. Về yếu tố Mật pháp, tổ sư Pháp Loa ngày đêm trì chú, soạn tác phẩm liên quan đến Mật pháp như Kim cang tràng đà la ni, thực hiện các lễ quán đỉnh, lễ cầu mưa cầu tạnh theo chiếu lệnh của các vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông…, Từ thời Lê trung hưng trở đi, Thiền sư Minh Châu Hương Hải xây dựng rất nhiều biệt điện mang yếu tố Mật pháp chuyên biệt như Phật mẫu Chuẩn Đề, Quan Âm ngàn tay ngàn mắt… các nghi thức cúng Thí thực hàng ngày, chẩn tế cô hồn vào các dịp lễ Khánh thành, cầu siêu, cầu an, chúc khánh… mang tính quốc gia, tự viện, gia đình… không ngừng được thực hiện trong ngôi nhà Phật giáo Việt…
Ngày nay, tại các tự viện, sự dung thông Thiền – Tịnh – Mật được thể hiện ngay trong mỗi thời trì tụng, trong mỗi kinh trì tụng và trong đời sống sinh hoạt tôn giáo thường nhật. Các thời kinh công phu sáng chiều, các buổi trì Pháp Hoa, Phổ môn, Di Đà, Địa tạng, Thủy sám… vào mỗi tối hay các ngày vía… trì chú, niệm Phật A Di Đà, Tập trung tư tưởng quán Phật, quán chú… là các yếu tố không thể thiếu. Điều đó khẳng định một cách thống nhất sự dung thông của ba yếu tố này trong đời sống Phật giáo Việt.

3. Thiền – Tịnh – Mật dung thông qua hình ảnh đài “Cửu phẩm liên hoa”
3.1. Đài “Cửu phẩm liên hoa” của Tam tổ Huyền Quang (1254- 1334) và Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647- 1726)

Đài “Cửu phẩm liên hoa” là một tác phẩm nghệ thuật Phật giáo đặc biệt, thể hiện một cách sống động sự dung thông, tịnh hành ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật trong hành trình truyền giáo của các Thiền sư phái Trúc Lâm, Trúc Lâm – Lâm Tế, đáp ứng nhu cầu học Phật của tôn giáo và xã hội đương thời. Theo Việt nam Phật giáo sử luận, Thiền sư Huyền Quang đã xây dựng 2 đài “Cửu phẩm liên hoa”, một đặt ở chùa Tư Phúc – Côn Sơn, một đặt ở chùa Ninh Phúc – Bắc Ninh: “Ở chùa Tư Phúc… ông có xây một tòa tháp có thể xoay được, gọi là Cửu phẩm liên hoa… sách Bắc Ninh phong thổ tạp ký nói rằng Huyền Quang đã đi thăm nhiều chùa, trong đó có chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp. Tại đây ông cũng đã dựng một đài Cửu phẩm liên hoa. Trong những ngày lễ lớn, tín đồ tới chùa tay xoay đài, miệng trì chú hay niệm Phật. Tháp xoay có chín tầng tám mặt, mỗi mặt của tầng dưới chạm nổi hình ảnh sự tích Phật, trong đó có hình ảnh thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà. Tòa Cửu phẩm tại chùa Côn Sơn chắc cũng tương tự”[3]. Còn trong phần Tiểu sử và trong phần tựa tác phẩm Kiến tính thành Phật, năm 1684 và sau đó suốt 9 năm ròng, Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng: “… dựng đài Cửu phẩm liên hoa tại chùa Quỳnh Lâm theo kiểu mẫu đài Cửu phẩm liên hoa của Thiền sư Huyền Quang ở chùa Ninh Phúc”[4], “… ra sức tạo dựng đài Cửu phẩm liên hoa, qua chín năm thì hoàn thành ba đài ở ba nơi: Đài ở chùa Quỳnh Lâm núi Tiên Du, Đài ở chùa Hoa Yên núi Yên Tử, đài ở chùa Linh Ứng huyện Thanh Hà”[5]. 2 đài Cửu phẩm liên hoa mà Thiền sư Huyền Quang tạo tác thật sự là tác phẩm nghệ thuật xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt. Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng làm 3 đài cũng là kế thừa từ Thiền sư Huyền Quang. Có điều sự xuất hiện của các đài Cửu phẩm liên hoa ở mỗi thời kỳ đều có giá trị chung riêng đáng bàn.

3.2. Nguồn gốc và ý nghĩa của đài Cửu phẩm liên hoa

Theo Phật quang đại từ điển: “Cửu phẩm liên hoa đài (九品蓮花臺), chín bậc đài sen. Đài sen của những người tu theo Cửu phẩm vãng sinh. Gọi tắt là Cửu liên. Người tu niệm Phật cầu vãng sinh, lúc sắp chết được thánh chúng đem đài sen đến đón… Cửu phẩm vãng sinh… gồm Thượng phẩm thượng sinh, thượng phẩm trung sinh, thượng phẩm hạ sinh, trung phẩm thượng sinh, trung phẩm trung sinh, trung phẩm hạ sinh, hạ phẩm thượng sinh, hạ phẩm trung sinh, hạ phẩm hạ sinh… Cứ theo kinh Quán vô lượng thọ, những người cầu nguyện vãng sinh tùy theo căn cơ và hạnh nghiệp hơn kém mà chia làm chín bậc. Do đó cõi Tịnh độ cực lạc cũng chia làm chín bậc khác nhau. Ngoài ra Mật giáo cũng có thuyết chín phẩm riêng… Cửu phẩm vãng sinh kinh, 1 quyển, Bất Không dịch vào đời Đường. Gọi đủ là Cửu phẩm vãng sinh a di đà tam ma địa tập đà la ni kinh…”[6]. Có thể thấy, đài “Cửu phẩm liên hoa” tuy xuất phát từ Tịnh độ tông nhưng yếu tố Mật thuộc Mật tông và Thiền thể hiện khá rõ ràng. Bởi Quán vô lượng thọ là một trong ba bộ kinh cơ bản của Tịnh độ tông (Vô lượng thọ kinh – A di đà kinh – Quán vô lượng thọ kinh) nhưng “Quán” chính là Chỉ – Quán trong Thiền pháp vốn có của Phật giáo. Và như vậy là Thiền – Tịnh dung thông. Còn Cửu phẩm vãng sinh a di đà tam ma địa tập đà la ni kinh chính là kinh thể hiện đầy đủ nhất cho sự dung thông ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật. Thứ nhất, tên kinh “Cửu phẩm vãng sinh a di đà” thuộc Tịnh độ tông, “Tam ma địa tập” chính là cách gọi khác của Tam muội – Chính định thuộc Thiền, “Đà la ni” là một trong những cách gọi tiêu biểu của Mật tông. Thứ 2, Bất Không (705- 774) là tổ thứ 6 của Mật tông Ấn Độ, và là một trong ba tổ sư đầu tiên của Mật tông Trung Hoa truyền pháp vào thời Đường Huyền Tông. Thứ 3, nội dung của kinh này nói về “chín phẩm tịnh thức Tam ma địa trong cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà) và danh hiệu tượng Phật trong 12 Đại mạn đồ la, đồng thời dạy phương pháp vãng sinh lên chín phẩm”. Như vậy trong Tịnh có Mật có Thiền…

3.3. Nội hàm và giá trị của Đài Cửu phẩm liên hoa trên trong đời sống Tôn giáo và xã hội Việt.
Quay lại với đài “Cửu phẩm liên hoa” mà Huyền Quang và Chân Nguyên tạo tác, có thể thấy theo mô tả trong Bắc ninh phong thổ tạp ký thì “Tháp xoay có chín tầng tám mặt. Mỗi mặt của tầng dưới chạm nổi hình ảnh sự tích Phật, trong đó có hình ảnh thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà”. Như vậy, “chín tầng” chính là “chín phẩm sen vàng lên giải thoát”, cùng với “Hình ảnh thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà” đều là những yếu tố có trong Tịnh độ tông. “Tám mặt” có thể khẳng định là xuất phát từ “Bát chính đạo” trong Phật giáo dù Nguyên thỉ – Bộ phái hay Đại thừa. “Bát chính đạo” cũng chính là Tam học: Giới – Định – Tuệ, yếu tố Thiền định hiện hữu minh nhiên. Đài “Cửu phẩm liên hoa” lại làm dưới dạng “Tháp xoay”, tháp xoay chính là một biến cách của chuông pháp luân ở Tây Tạng. Người học Phật Tây Tạng, khi đến chùa, tay xoay dãy chuông pháp luân, miệng niệm chú, hoặc hồng danh Phật, cầu phúc, diệt tội. Vì thế Bắc ninh phong thổ tạp ký không quên khẳng định “Trong những ngày lễ lớn, tín đồ tới chùa tay xoay đài, miệng trì chú hay niệm Phật”. Sở dĩ Phật giáo Tây Tạng có thể đến được với đất Việt có lẽ xuất phát từ Phật giáo nhà Nguyên. Phật giáo nhà Nguyên lấy Phật giáo Tây Tạng làm chính yếu, trong đó yếu tố Mật tạng là nổi bật. Quan hệ giữa Đại Việt và nhà nước Nguyên Mông không chỉ thể hiện ở 3 trận đánh mà còn ở nhiều lĩnh vực khác nữa, yếu tố Phật giáo vì thế không phải là ngoại lệ.
Một điểm chung nữa có thể minh chứng cho sự dung thông của ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật từ đài “Cửu phẩm liên hoa” này. Đó chính là tranh vẽ các sự tích Phật giáo “Mỗi mặt của tầng dưới chạm nổi hình ảnh sự tích Phật, trong đó có hình ảnh thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà”. Việc vẽ về sự tích theo các kinh điển trên vách tự viện hoặc trong các pháp khí Phật giáo đã có nguồn gốc từ thời Phật Thích Ca còn tại thế như ghi nhận trong Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ nại da tạp sự quyển 2, quyển 34 rằng: “Tỳ kheo có thể vẽ tử thi hoặc đầu lâu phục vụ cho việc quán tưởng tu tập; trước cửa chùa Tỳ kheo được phép vẽ bích họa về: Sinh tử luân hồi, cảnh giới địa ngục, cảnh giới trời người; hoặc vẽ tượng Phật; vẽ chim bồ câu biểu thị tham dục, vẽ hình rắn độc biểu thị sân nhuế, vẽ hình lợn biểu thị ngu si; và cũng được phép vẽ tướng sinh diệt của 12 duyên sinh pháp”[7]. Về sau, bích họa này phát triển thành một loại được gọi bằng thuật ngữ chuyên môn là “Biến tướng, Biến tượng, Biến hội, Biến”, “Tức miêu tả các động thái thực bằng cách vẽ hoặc chạm trổ, như vẽ về cảnh Tịnh độ của Phật A Di Đà thì gọi là Di Đà Tịnh độ biến, vẽ về Tịnh độ của Di Lặc thì gọi là Di Lặc Tịnh độ biến, Hoa nghiêm biến tướng chính là bích họa về 7 chỗ 9 hội của kinh Hoa nghiêm…”[8]. Trong Thiền tông, cụ thể nhất là Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã mời thợ vẽ Lăng già sự biến ở vách Thiền viện Đông Sơn của ông nhưng nó đã được thay bằng bài kệ của Thần Tú và Huệ Năng mà tác phẩm Pháp bảo đàn kinh đã ghi nhận. “Thai tạng giới, Kim cang giới” trong các Mạn đồ la của Mật tông, cũng chính là loại Biến này. Ngoài việc kế thừa từ nền Phật giáo chung của Ấn – Hoa, đài “Cửu phẩm liên hoa” của Huyền Quang có lẽ cũng tiếp thu từ nghệ thuật bích họa của Phật giáo Lý – Trần, đặc biệt là nghệ thuật “Quảng chiếu đăng” như ghi nhận ở hầu hết các văn bia Phật giáo thời kỳ này. Theo Sùng thiện diên linh tháp bi thì “Quảng chiếu đăng” chính là Tháp đèn bảy tầng có thể xoay được với hình ảnh và sự biến của cảnh giới 7 đức Như Lai (hoặc Ngũ trí Như Lai, trong đó có đức A Di Đà Phật của Tịnh độ tông) trong hệ thống Mật tông. Tháp xoay này được Lý Nhân Tông thiết kế cho lễ hội Quảng chiếu nhằm mục đích “Dốc hòa vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày; thỏa lòng mắt của thế gian, già đổi nên trẻ”[9]. Nghĩa là hướng tới mục đích nhương tai, tăng ích vốn có trong Mật thừa nói riêng, trong Phật giáo nói chung.
Hơn thế nữa, đài “Cửu phẩm liên hoa” của hai Thiền sư Huyền Quang và Chân Nguyên cũng ghi nhận sự tiếp nối, phát huy, sáng tạo trong tự thân của Thiền phái Trúc Lâm – Trúc Lâm Lâm Tế. Về yếu tố Thiền, không cần phải bàn, vì cả hai đều là Tổ sư kế thừa thống hệ bản phái. Về yếu tố Tịnh độ, trong Thiền phái Trúc Lâm, Trần Thái Tông có bài Niệm phật luận nhưng là “Tịnh độ tâm” và niệm Phật chung chung “Kẻ hạ trí miệng siêng niệm lời Phật, lòng muốn thấy hình tướng Phật, thân nguyền sinh ở nước Phật”, Trần Nhân Tông thì khẳng định Tịnh độ là Tịnh tâm, Di Đà là Minh tính của tự thân, Pháp Loa có đúc hẳn hai bộ Di đà tam tôn, tức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí vào năm Khai Thái 1(1324) nhưng cũng như các tượng Di Lặc, Thích Ca… mà ông đã đúc, chứ chưa ghi nhận hẳn về cõi Cực Lạc, hành trình tu học để sinh về đấy. Đài sen của Thiền sư Huyền Quang mô tả đầy đủ cảnh giới Tịnh Độ Cực Lạc, Phật – Bồ tát – Thánh chúng của cõi Phật phương Tây này, đồng thời vẽ rõ hành trình 9 phẩm tu chứng của Tịnh độ tông, chính thức đưa pháp môn “Niệm Phật A Di Đà, cầu sinh về cõi Cực Lạc” vào đời sống Tôn giáo và đời sống tín ngưỡng văn hóa xã hội đương thời. Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng, ngoài làm 3 đài “Cửu phẩm liên hoa” như Huyền Quang, lại còn tiếp tục khẳng định tự tính Di Đà, diệu dụng Di Đà theo tinh thần vốn có của phái Trúc Lâm, rằng: “Di Đà tự tính bản như như, không tịch viên quang khước thái hư, phụ mẫu vị sinh chân diện mục, đông tây quy khứ tất phùng cừ”, “Tịnh độ phân minh tại mục tiền, bất lao đàn chỉ đáo tây thiên, pháp thân nghiễm hỹ siêu tam giới, tọa hiện Di Đà tọa cửu liên”[10]…, và còn soạn tác phẩm, viết lời bạt… về Tịnh độ như Long thư tịnh độ văn, Long thư tịnh độ luận bạt hậu tự, Tịnh độ yếu nghĩa theo yêu cầu của vua Lê Dụ Tông. Sự kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố tính và tướng này tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều thành phần xã hội đến với Thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Phật giáo nói chung, góp phần tạo nên những thời kỳ cực thịnh, vàng son của Thiền tông và Phật giáo Việt.
Đến nay, đài “Cửu phẩm liên hoa” đặt tại chùa Ninh Phúc (chùa Bút Tháp) Bắc Ninh không chỉ là tác phẩm của Phật giáo, mà còn là tác phẩm văn hóa – tín ngưỡng… của xã hội Việt, thể hiện đầy đủ các giá trị vốn có của nó từ khi ra đời.

4. Lời kết

Thiền – Tịnh – Mật dung thông được thể hiện qua hình ảnh đài “Cửu phẩm liên hoa” của hai Thiền sư Huyền Quang và Chân Nguyên Tuệ Đăng có thể nói là khá đặc biệt. Bởi trước hết, đó là sự sáng tạo không ngừng của mỗi cá nhân Thiền sư – người học Phật trong hành trình hoằng pháp lợi sinh. Sáng tạo để thích nghi, phù hợp, đáp ứng với nhu cầu của Phật giáo và xã hội theo từng thời kỳ. Song sự “tùy duyên phương tiện” đó vẫn xuất phát từ nền tảng kinh điển, giáo điển chân chính của Phật giáo, vẫn nằm trong khuôn khổ, chuẩn mực “Bất biến” của Phật giáo và vẫn thuộc mục tiêu chung của Phật giáo: Tự độ độ tha thoát khỏi sinh tử luân hồi khổ. Điều đặc biệt nữa là sự dung thông, tịnh hành của ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật trong đài “Cửu phẩm liên hoa” vẫn lấy yếu tố Thiền làm bản vị, một yếu tố thống nhất, xuyên suốt của Phật giáo Việt, trong đó có Thiền phái Trúc Lâm./.


[2] Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông, hội thứ 2
[3] Nguyễn Lang, Việt nam phật giáo sử luận, NXB Văn học Hà Nội, 1994, tập 1, tr 433
[4] Theo ghi nhận ở phần tiểu sử trong Thiền tông việt nam 6 của bộ Thanh từ toàn tập, NXB Tôn giáo, 2014, tr 21
[5] Theo ghi nhận ở tác phẩm Kiến tính thành phật, Thiền tông việt nam 6, sách đã dẫn, tr 405 -406
[6]Phật quang đại từ điển, bản dịch của Thích Quảng Độ, Hội Văn hóa giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản,, tập 1, tr 1176 – 1181
[7] Pháp sư Thánh Nghiêm, Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, bản dịch của Thích Tâm Trí, NXB Phương Đông, 2013, tr 281
[8] Phật quang đại từ điển, bản dịch của Thích Quảng Độ, Hội Văn hóa giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, tập 1, tr 613
[9] Xem chi tiết trong Văn bia tháp Sùng Thiện Diên linh nhà Lý
[10] Tác phẩm Kiến tính thành phật, Thiền tông việt nam 6, sách đã dẫn, tr 490- 491
THANK YOU
30-06-2020, 07:45 PM
Bài viết: #273
RE: NEW TOPIC'S DQ
MƯỜI NGHIỆP LÀNH

Sư Giới Đức

Người, vật, chim muông, hoa lá, cỏ cây, lâu đài, phố thị, làng mạc... đều nương tựa trên mặt đất. Cũng vậy, chúng sanh hữu tình, các bậc trí tuệ, chư thánh nhơn, đức Phật... cũng do 10 nghiệp lành mà có sắc thân, tướng mạo, y báo, chánh báo sai khác, dị đồng... Tất cả phải nương tựa nơi 10 nghiệp lành vậy.

Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả. Mười nghiệp lành thường quyết định duyên lành, làm cho thông minh sáng láng, học hành thành đạt, sự nghiệp hanh thông, gia đình ấm êm và cả trí tuệ thông hiểu con đường xuất ly ba cõi nữa.

Người Phật tử sau khi thọ Tam qui, Ngũ giới, Bát quan trai giới thì nên tu tập thêm thập thiện nghiệp để làm hành trang, tư lương tối thắng cho mình giữa thế gian cát bụi, lắm nghiệt ngã và nhiều khổ đau này.

Và thập thiện nghiệp ấy là gì?

1. Thân vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại các loài hữu tình.

Tất thảy các loài hữu tình, từ bò, bay, máy, cựa, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân cho đến chúng sanh có cánh, không cánh, có vây, không vây... ở trên mặt đất, dưới biển, ao hồ, sông rạch, trên hư không... chúng đều có sự sống, có thức tánh, biết đau đớn - thì người Phật tử phải biết tôn trọng, chẳng nên giết hại.

Tất cả các loài, các loại, các giống chúng sanh ấy, do thấp sanh (ẩm ướt, ẩm thấp), do bàng sanh (súc sanh) hay noãn sanh (trứng), chúng đều do sự chi phối, tác động của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Khi chúng trả hết ác nghiệp, chúng có thể trở lại thân người. Trái lại, nếu không tạo trữ phước lành, cứ tà kiến, ngu si, ác độc làm việc dữ; thì chúng ta cũng phải bị đọa vào các cảnh giới đau khổ ấy. Để tránh khỏi sự khổ báo và trả vay nhân quả, chúng ta chẳng nên sát sanh hại vật; dù sinh mạng chúng nhỏ nhiệm thế nào.

Nói rộng hơn nữa, ngay chính cây cối, thảo mộc là loài vô tri, vô giác, không có thức tánh, chúng ta cũng không nên chặt phá bừa bãi; vì chúng cũng có "sự sống" vậy.

Nếu biết vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại, người Phật tử sẽ tăng trưởng lòng từ; và những trạng thái tâm ác độc, hung dữ lần hồi sẽ lắng dịu. Tâm từ càng phát triển thì tâm sân, sát, hận, ưu sẽ không còn. Và khi ấy, người Phật tử sẽ cảm nghe một năng lực từ hòa, mát mẻ từ bên trong lan tỏa ra bên ngoài, thấm nhuần khắp cả không gian, người, vật, cây, cỏ... lúc ấy là lúc mà nghiệp lành thứ nhất đã thành tựu, đã tuyệt hảo, trọn vẹn, viên mãn vậy.

Có thơ rằng:

"- Muôn loài sự sống đều nhau

Có thân, có thức biết đau như mình

Nỡ nào giết hại hữu tình

Ruột mềm máu chảy thương sinh não nùng”.

2. Thân vĩnh viễn từ bỏ trộm cắp của cải, tài sản của người khác.

Của cải, tài sản, cái ăn, cái mặc, phương tiện, nhu cầu sinh sống của mọi người trên thế gian; một phần do phước báu tạo trữ từ nhiều kiếp nên được thọ hưởng sung mãn, dư dật trọn đời; còn đa phần là do lao tâm, lao lực, đổ mồ hôi, sôi nước mắt; chịu khó làm ăn, trăm phương nghìn kế, thức khuya dậy sớm, chăm chuyên cần mẫn, biết để dành, vun quén, tiết kiệm... mới có được.

Cũng có thứ tài sản, của cải, gia tài của một số người do làm ăn phi nghĩa, phi nhân, bất chánh. Nhưng chúng hoạnh phát thì hoạnh tàn, sẽ đi kèm theo định luật nhân quả trả vay ngay hiện tại hoặc kiếp sau. Và sự báo ứng, tất nhiên, không thể chạy trốn đâu cho khỏi được.

Như vậy, của cải, tài sản xét theo mọi lẽ, người Phật tử tự biết, nếu khởi tâm trộm cắp đã là ý nghĩ bất chánh, đã do lòng tham khởi động, xúi giục, sai bảo. Là nô lệ của vô minh, ái dục và si mê. Nếu không tỉnh thức, tự chủ, tự chế... thì lòng tham kia sẽ che mờ tâm trí, bịt mắt lương tri, rồi nó sẽ dẫn chúng ta đến chỗ tội tù, lao hình thống khổ. Các tội ác khác, đôi khi cũng từ đó mà đồng loạt dấy sanh. Những mưu mô, thủ đoạn, ác độc, lường gạt, giết người, gian dối, tham nhũng, hối lộ, san đoạt tài sản... xảy ra hằng ngày hằng giờ trên thế gian, không là bài học máu xương cho chúng ta suy gẫm hay sao? Và khi ấy, vòng trầm luân bất định của những con đường đau khổ, một lần rơi đọa, biết mấy triệu kiếp sau mới trở lại thân người? Chỉ cần một tí liên tưởng, một chút tư duy, người Phật tử sẽ vĩnh viễn không dám thò tay, nạy cửa, lấy cắp tài sản, của cải của người, của xã hội. Không những hiện vật có giá trị mà những thứ ít có giá trị hoặc không có giá trị gì mấy, người Phật tử chơn chính cũng sẽ không lấy khi vật ấy chưa được cho, chưa được sở hữu chủ bằng lòng, hoan hỷ cho.

Chỉ "không khởi tâm" trộm cắp, từ bỏ vĩnh viễn không lấy cắp đã là một nghiệp lành cao cả, sẽ đem đến an vui, an toàn cho mọi người xung quanh và xã hội rồi. Khi ấy, những hiện vật trưng bày ở những nơi công cộng như công viên, đường sá, vườn hoa, nhà mát, khu di tích lịch sử, văn hóa... ở đâu đều nguyên vẹn ở đó, được tất thảy mọi người bảo vệ và tôn trọng. Lúc ấy, nhà nhà không cần đóng cửa, không ai cần thiết phải kín cổng, cao tường, rào chông mấy lớp. Các loại ổ khóa không cần dùng. Của rơi dọc đường không ai thèm lượm, nếu nhặt được người ta sẽ tìm cách hoàn lại cho khổ chủ. Khung cảnh và không khí thanh bình tuyệt vời ấy quả là thiên đường trần gian, mà con người không thể ước mơ được hay sao?

Bèn có thơ rằng:

"- Trộm cắp, lấy cướp của người

Làm thân trâu ngựa bao đời trả xong

Lại còn đói khổ chất chồng

Thây ma, xác quỷ trôi sông, dạt bờ”.

3. Thân vĩnh viễn từ bỏ tà dâm, tà hạnh.

Sự chung thủy vợ chồng là nét đẹp văn hóa truyền thống của nền đạo đức và luân lý Đông phương.

Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình được hạnh phúc, an vui thì xã hội mới được hạnh phúc, an vui. Thật không thể quan niệm được khi một xã hội văn minh, tiến bộ, thịnh mãn về vật chất, áo cơm - lại có thể đem đến hạnh phúc cho mọi nhà, khi "mọi nhà" ấy: vợ chồng tự do ngoại tình, tự do lăng nhăng, tự do bỏ vợ, bỏ chồng để đi tư tình, thương yêu người khác!

Tục ngữ nói: "Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn". Thuận là hòa thuận. Hòa thuận là do thương yêu, hòa hợp, đùm bọc, chia sẻ ấm lạnh ngọt bùi, vui buồn gian khổ có nhau, không bao giờ phụ rẫy, hắt hủi, bạc tình, bạc nghĩa với nhau.

Đạo Phật là đạo xuất ly thế gian nhưng mà không đoạn tuyệt thế gian; vẫn phân biệt rõ ràng đâu là hạnh phúc thế gian đâu là hạnh phúc siêu thế. Và đối với người cư sĩ, hạnh phúc gia đình luôn được đức Phật nhắc nhở, dạy bảo. Lác đác trong kinh điển, đức Phật thường giáo giới đến hàng tại gia biết cách vun quén, xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình mình. Những bổn phận của vợ đối với chồng, của chồng đối với vợ, trong đó sự thương yêu và lòng chung thủy luôn được xem trọng hàng đầu. Như vậy, khi muốn gia đình mình được hạnh phúc, an vui thì ta không nên phá hoại hạnh phúc và an vui của gia đình người khác.

Khi vợ chồng không còn thương yêu, chung thủy; lại đem san sẻ tình yêu cho người khác; thì những gấu ó, bất hòa, lời qua tiếng lại, "ông ăn chả, bà ăn nem" đưa đến phân ly, tan nát là một viễn cảnh vô cùng đen tối. Con cái, từ đó sẽ không có nơi nương tựa khi vợ chồng ly thân hoặc ly dị. Chúng sẽ sinh ra hư hỏng, cướp của, giết người, xì-ke, ma tuý, hình lao, tù tội... thật không mấy xa! Thiếu vòng tay mái ấm gia đình, chúng sẽ mất niềm tin với đời, trái tim sẽ băng lạnh, nhân tính biến đổi...

Có thơ rằng:

"- Thương nhau sao nỡ phụ nhau

Bạc tình, bạc nghĩa ôm bầu trăng hoa

Thói quen ác hạnh, dâm tà

Nát tan mái ấm, chết sa khổ đồ”.

4. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói dối.


Thế gian ai cũng ưa ăn ngay nói thật. Lời nói chơn chánh, chân thực, biểu hiện đức độ, sức mạnh nội tâm, đem đến sự tin tưởng, tin cậy, tín cẩn ngọt ngào và dễ mến giữa cuộc đời này.

Những kẻ có nói không, không nói có, bóp méo sự thật, xuyên tạc lẽ phải thường đem đến nhiều nguy hại, khổ đau và bóng tối cho trần gian biết là ngần nào?

- Có lời nói dối đưa đến chém giết, hận thù.

- Có lời nói dối làm cho người ta tán gia, bại sản.

- Có lời nói dối phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác.

- Có lời nói dối đưa kẻ khác đến tội tù, gia đình người ta phân ly, tan nát.

- Có lời nói dối chận đứng sự tiến thân, danh vọng hoặc sự nghiệp của người khác.

- Có lời nói dối làm cho người ta tức uất thổ huyết mà chết.

- Có lời nói dối đưa đến ganh ghét, đố kỵ, tỵ hiềm.

- Có lời nói dối làm cho người thân, huynh đệ, bạn bè suốt đời không nhìn mặt nhau...

Là người Phật tử, chỉ có việc "từ bỏ vĩnh viễn lời nói dối" đã là tốt đẹp và cao cả lắm rồi. Trên phương diện tương quan nhân quả, nghiệp lành này mang đến cho cuộc đời sự bình yên; hoặc ít ra là tạo được không khí trong lành, không bị ô nhiễm bởi những tác hại do những lời nói dối gây ra.

Ôi! cuộc đời này sẽ dịu dàng và tinh khiết dường bao khi xung quanh ta đều là những người không biết nói dối, không bao giờ nói dối! Chư Bồ-tát, các bậc Thánh nhân dù họ có lìa bỏ sanh mạng, bị hành thân hoại thể, bị sỉ nhục đắng cay; chắc chắn không vì vậy mà nói dối hại người! Vậy, không nói dối là phẩm chất cao thượng, là đức tính quí báu mà ai cũng có sẵn trong chính mình; cần được bảo vệ, phát huy và trưởng dưỡng cho đến độ viên mãn.

Bèn có thơ rằng:

"- Lời nói chẳng mất tiền mua

Tự tâm có sẵn, vốn xưa đầy bồ

Lìa xa dối vạy quanh co

Ngữ ngôn chân thật, thước đo đạo tràng”.

5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo.


Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều.

Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã cương mãnh hơn nhiều. Đã trở nên mù quáng lý trí, đã đánh mất nhân tính, đã rời xa đạo đức, luân lý và lẽ phải ở đời. Tham sân ở đây đã trở nên tham độc và sân độc, đã biến con người đầy đủ nhân tính, thiện lương thành các loài rắn rít, bò cạp hoặc độc trùng ghê tởm khác.

Là người Phật tử chơn chánh, không những phải giữ trọn nghiệp lành không nói dối mà còn biết từ bỏ vĩnh viễn lời nói vu oan, vu cáo, giá họa, đẩy người khác đến chỗ không tội mà thành tội, không làm mà thành làm, xô người khác vào vực thẳm tội tù hoặc suốt đời bị đọa đày, oan khuất, tối tăm, thống khổ.

Cho nên có thơ rằng:

"- Vu oan, vu cáo hại người

Một lời giá họa nặng mười ác tâm

Độc trùng, dã thú chớ gần

Miệng lời rắn rít, lụy thân nhiều đời”.

6. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ...


Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng hai cách nói trên nhưng cũng chẳng hay ho, tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại cả.

Lời cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc... biểu hiện một trạng thái tâm chưa được huấn luyện. Ấy là cái tâm đang còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia phong, lễ giáo nề nếp con nhà! Những lời nói như thế ấy làm đau lòng người khác, thường đưa đến sự xô xát, đánh đập tay chân hoặc đùi gậy, dao búa đến sứt đầu, bể trán mà thôi.

Người có học thức, hiểu biết, nội tâm đã được huấn luyện, có tu tập; thường dễ dàng tránh xa những lời nói kiểu này. Là Phật tử chơn chánh, ngôn ngữ nói ra phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe. Người ta thường ví miệng thơm như hoa lan để nói đến người có lời nói chân thật, ái từ là vậy.

Có thơ rằng:

"- Cộc cằn, thô lỗ ai ưa?

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau

Tâm hoa thơm ngát, thơm lâu

Từ hoà, ái ngữ một câu miệng vàng”.

7. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm...

Những cách nói như thế ấy quả là làm mất thì giờ vô ích. Chỉ có kẻ ngồi lê đôi mách, ăn rỗi ở thì, nội tâm trống rỗng, không có việc làm, không đọc kinh sách, nhàn cư, thiểu học... mới rơi vào trường hợp này.

Người xưa nói: Một ngày không đọc sách, một ngày hôi miệng! Thế còn những kẻ rỗng không, vô tích sự, giết thì giờ trong những câu chuyện tục tĩu, nhảm nhí thì nội tâm và trí óc họ chứa đựng những gì?!

Vậy, người Phật tử chơn chánh có Tam qui, Ngũ giới, có tu tập và biết phát triển những nghiệp lành, đừng nên coi những cách nói rỗng không, nhảm nhí... là chuyện nhỏ mọn! Một hạt bụi tí ti rơi vào mắt cũng làm cho mắt phải bị nhức nhối, xốn xang. Một chút dơ uế lấm lem vào tâm, khinh thường lâu ngày thì cái tâm kia cũng trở nên đen đúa và xấu xa! Những giọt nước rỉ từng giọt lâu ngày cũng đầy tràn sông hồ, ao biển... đúng như câu kinh Pháp cú số 121:

"- Nước rơi từng giọt giọt thôi

Lâu ngày chầy tháng đến hồi tràn lu

Chút chút việc ác, mặc dù

Ngày qua tháng lại, người ngu ác đầy!"

Những lời nói rỗng không, nhảm nhí, tục tĩu, vô ích... lâu ngày thành thói quen, tích lũy thành nghiệp ác. Những lời nói bỡn cợt, ba lơn, ba láp, ba xàm; ban đầu tưởng là vô hại, nhưng lâu dần chúng trở thành cá tính khó rời; khiến ta thành kẻ không đứng đắn, thiếu tư cách, mất phẩm chất thật là uổng phí vậy. Khi mà đã trở thành như thế thì kẻ ấy dù có chân đứng, địa vị, danh vọng và sự nghiệp gì trên cuộc đời cũng sẽ bị người coi khinh, khi rẻ, nhạo báng, xem thường!

Cho nên có thơ rằng:

"- Rỗng không, tục tĩu, vô duyên

Miệng lời nhảm nhí, trí hiền chẳng ưa

Chẳng nên thêu dệt thiếu thừa

Đẹp ngôn, đẹp khuẩu lại vừa thơm hương”.

8. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự tham lam

Có những mong muốn, ước muốn bình thường trong đời sống mà chẳng phải tham lam. Ví dụ đói muốn ăn, khát muốn uống. Hoặc, ta mong muốn làm một điều gì, muốn thực hiện một việc gì... Tất cả những mong muốn ấy, theo Abhidhamma, nó là "chanda", là dục tâm sở; chỉ mới là ước muốn thuần túy chưa quyết định thiện ác. Còn tham lam là do tâm sở "lobha" hay "abhijjā", có trạng thái dính mắc, có sự tham dự của tư tâm sở (cetanā) mới tạo thành nghiệp. Do vậy, khi tâm tham khởi thì những tâm sở bất thiện đồng khởi theo để tạo tác tất cả những việc xấu ác trên trần đời!

Lòng tham ấy sẽ được hiện khởi từ các tâm trạng sau đây:

- Không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có.

- Không bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia... tương tự như tục ngữ: "đứng núi này trông núi nọ, được voi đòi tiên".

- Luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác.

- Luôn muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người.

Nói rộng hơn, nhưng cũng cô đọng hơn là lòng tham được thỏa mãn lục trần: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái cùng những tham vọng về tinh thần. Đấy là những tham vọng về quyền lực, danh vọng, sự nghiệp, bá chủ, thần thông, phép lạ...

Lòng tham ấy đã tung rải biết bao nhiêu bóng tối, đau khổ và tang thương cho nhân loại từ xưa đến nay! Thế giới lục trần tươi đẹp và hào nhoáng ấy là đóa hồng diễm kiều hương sắc nhưng lại đầy gai máu! Nó là vực thẳm chông nhọn được trải bằng tấm thảm nhung êm. Nó là mồ chôn biết bao sa-môn, đạo sĩ, đế vương, công hầu, khanh tướng, tỷ phú, triệu phú, anh hùng, quân tử, mỹ nhân, vĩ nhân, danh nhân, thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ và cả những khoa học gia danh tiếng lẫy lừng... Lòng tham ma vương không chừa một ai trên trần thế! Tham ít khổ ít, tham nhiều khổ nhiều, đấy là định luật tất yếu! Là sức dội lại của quả bóng tuỳ thuộc lực ném vào tường! Là sự bỏng cháy nhiều ít do các ngón tay hay bàn tay vọc lửa!

Vậy, người Phật tử chơn chánh muốn chấm dứt các khổ đau, phiền não thì phải biết nghe lời từ bi và trí tuệ của đức Đại Giác; phải biết vĩnh viễn từ bỏ lòng tham này vì lợi ích cho mình và cho người. Đây là nghiệp lành vừa có phước báu nhân thiên vừa gieo duyên với cứu cánh giải thoát tối hậu.

Có thơ rằng:

"- Lửa nào hơn được lửa tham

Đốt trái tim, cháy lầm than kiếp người

Lá hoa, cây cỏ thắm tươi

Vô tham hạt giống, đâm chồi tự do!"

9. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự sân hận (thù oán, oán hận, ác ý)

Tâm sân do chữ dosa. Theo Abhidhamma, tâm sân không bao giờ khởi một mình, tuỳ theo cường độ, tính chất của nó mà các tâm sở tương ứng cùng khởi theo. Ví dụ: tật, xan, hối...

Theo cách hiểu thông thường, sân mà còn hận nữa thì cường độ sân ấy đã tăng thêm một bậc, có thể thiêu huỷ, đốt cháy các đối tượng. Lửa sân hận rất khủng khiếp, nó có thể tạo nên các tội ác trên cuộc đời, nó có thể đốt cháy tất thảy mọi ruộng vườn công đức, phước báu.

Người có trí, có căn bản giáo pháp, có tu tuệ quán, có thể biết được sự hiện khởi của tâm sân ấy qua mấy dạng sau đây:

- Sân bình thường, tức là sân do phản ứng tự nhiên của tâm sinh lý; chưa có hại, chưa tạo nghiệp.

Ví dụ: Thấy khó chịu khi nghe một âm thanh quá lớn. Trời nóng thì cảm thấy bực bội. Thấy điều ác, không ưa...

- Những điều trái ý, nghịch lòng nếu cứ gặp mãi thì trạng thái sân này sẽ gia tăng, cứ âm ỉ thiêu đốt ở trong lòng. Như vậy là từ sân bình thường (dosa), sân ấy đã chuyển sang ưu (domanassa).

- Nếu ưu càng gia tăng, mới nghĩ đến đối tượng đã không còn chịu nổi, muốn đập phá, muốn tiêu diệt đối tượng. Trạng thái tâm lý này đã chuyển thành hận (pāṭigha).

Tuy nhiên, ưu và hận sẽ không khởi một mình mà nó còn đi theo những tâm sở khác: tật, xan, hối... để tạo thành nghiệp. Do vậy, sân hận sẽ gia tăng cường độ rất nguy hiểm, càng lúc càng không thể kềm chế nổi. Nó có thể hủy diệt nhân loại, thiêu cháy một làng, một xóm. Nó có thể tạo ngũ nghịch đại tội. Nó có thể đưa chúng sanh vào hằng trăm loại địa ngục đồng sôi, lửa đốt, dao đâm, vạc dầu... thật vô vàn thống khổ.

Biết sự nguy hại của sân hận, người Phật tử chơn chánh nguyện phát triển nghiệp lành này, bằng cách tỉnh niệm thường xuyên để thấy rõ sự dấy khởi của nó và vĩnh viễn từ bỏ, loại trừ ưu và hận ra khỏi tâm.

Theo Abhidhamma, vô sân đồng nghĩa với tâm từ vô lượng, nên sự an lành và mát mẻ của nó đúng là môi trường sinh thái tốt lành cho người, vật, chim muông, cây cỏ.

Bèn có thơ rằng:

"- Không sân, mát mẻ xiết bao

Cây lành trái ngọt, ngát ngào hương hoa

Suối trong giữa cõi ta-bà

Tình xanh nhân ái, hoan ca thái bình”.

10. Ý vĩnh viễn từ bỏ tà kiến (chuyển tà kiến thành chánh kiến)

Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy được cái chơn, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; rồi còn ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến.

Những người học Phật thường gọi danh những người chấp đoạn là đoạn kiến, chấp thường là thường kiến. Đoạn kiến và thường kiến chính là tà kiến vậy.

Đoạn kiến là quan niệm cho rằng chết là hết, không còn gì. Không có kiếp này, kiếp kia, không có thiện ác, không có thiên đường, địa ngục, không có nhân quả báo ứng. Và, đạo đức, luân lý trên thế gian chỉ là trò u mê, ngốc nghếch! Vậy hãy hưởng thụ thân xác, làm cho "cái ta" hiện giờ đây được sung sướng, cực lạc. Hưởng thụ dục lạc ngũ trần chính là Niết-bàn vậy. Các nhà đoạn kiến có quan niệm như vậy rồi dạy môn đệ, viết sách để quảng bá tư tưởng ấy. Chủ nghĩa duy vật chất, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa hiện sinh rơi vào đoạn kiến này.

Thường kiến có quan điểm cho rằng có một linh hồn, một tự ngã thường hằng bất biến, không thay đổi, đầu thai từ kiếp này sang kiếp kia. Do vậy, kiếp này làm vua thì kiếp sau cũng làm vua. Thương gia, tướng cướp, cùng đinh hoặc đui, què, mẻ sứt... kiếp này thì kiếp sau cũng y như thế. Làm thiện chẳng có tích sự gì, làm việc ác mà được sung sướng thì cứ làm. Nhân, nghĩa, đạo đức, luân lý là con ngáo ộp dọa người đó thôi. Chúng ta do Thượng đế đã cho giàu sang thì sẽ giàu sang mãi mãi...

Như vậy, đoạn kiến và thường kiến đã đầu độc thế gian, làm cho thế gian đổ nát, hoang vu, điêu tàn, băng hoại. Nó thiêu huỷ, đốt cháy đạo đức, nhân luân, nhân tính cùng các giá trị tinh thần thiêng liêng, cao cả khác. Ngoài ra, rải rác trong kinh điển, còn có những cái gọi là biên kiến, kiến kiết phược, kiến hoang vu, kiến sa mạc, kiến điên đảo, kiến rừng rậm... đều là bà con họ hàng với tà kiến cả vậy.

Người Phật tử phải biết chuyển cái thấy sai thành cái thấy đúng, cái thấy nghiêng lệch bằng cái thấy chính chơn, nghĩa là phải biết chuyển tà kiến thành chánh kiến.

Thế chánh kiến là gì?

Chánh kiến là gọi tắt của chánh tri kiến (thấy biết chơn chánh). Chánh tri kiến là gọi tắt của chánh kiến, chánh văn, chánh giác, chánh tri.

Và "kiến, văn, giác, tri" là thế nào?

- Mắt thấy sắc như thực, nghĩa là sắc như thế nào phải thấy sắc như thế ấy. Thấy một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý kiến, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh kiến.

- Tai nghe âm thanh như thực, nghĩa là âm thanh như thế nào phải nghe âm thanh đúng như thế. Nghe một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh văn.

- Mũi ngửi hương như thực, nghĩa là hương như thế nào phải biết hương như thế ấy, một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh giác.

- Lưỡi nếm vị như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.

- Thân xúc chạm như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.

- Ý biết pháp như thực. Nghĩa là pháp nào thì phải biết cho đúng như thực với pháp ấy; đừng suy diễn ra, đừng tưởng tượng thêm, đừng dịch giảng lung tung! Ngoài ra, những thu góp tin tức từ các tiền trạm thông tin mắt, tai, mũi, lưỡi, thân như thế nào; khi vào đến ý phải phản ánh cho trung thực, không bị méo mó, lệch lạc... thì được gọi là chánh tri, tức biết như chơn như chánh vậy.

Kiến, văn, giác, tri là gọi tắt của sự thấy, biết, cảm giác, tri giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đối với đối tượng lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Kiến, văn, giác, tri như thực được gọi là chánh kiến.

Từ chánh kiến với nghĩa rốt ráo, tinh tủy, căn bản này, người Phật tử sẽ có được đức tin chơn chánh, không bị rơi vào các loại tà kiến phức nhiễu, hỗn loạn đang vấy độc giữa cuộc đời; không bao giờ còn bị ru ngủ, bị mê lẩn bởi các tôn giáo thần linh huyễn hoặc; những triết thuyết, học thuyết cao đại, khoa trương nhưng thiển cận, rối rắm, tơ vò; những mê tín nhân gian bậy bạ, mù quáng nữa.

Chánh kiến thuộc tuệ phần, quan trọng nhất trong con đường Thánh đạo có 8 nhánh. Vậy chuyển tà kiến thành chánh kiến đúng là nghiệp lành tối thượng, cao cả nhất để đến nơi giải thoát, an vui, chân hạnh phúc.

Bèn có thơ rằng:

"- Lưới mê trói buộc đã nhiều

Ngu si, tà kiến trăm điều đắng cay

Hành trang chơn chánh cầm tay

Tâm trong, trí sáng, non tây ta về”.

Kết luận,

Mười nghiệp lành như vậy là thân có 3, khẩu có 4 và ý có 3. Nếu thân khẩu ý được điều tiết, thu thúc, gìn giữ, bảo trọng, phát huy và tăng trưởng 10 nghiệp lành này, được gọi là thân khẩu ý trọn lành hay tam nghiệp trọn lành.

Lúc 10 nghiệp trọn lành là người Phật tử vĩnh viễn đóng cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, có thể mở cửa nhân thiên và thênh thang bước vào đại lộ huy hoàng của an vui và hạnh phúc. Đời kiếp nào cũng không còn rơi đọa vào các cảnh giới đau khổ, miền biên địa, chốn man di mọi rợ hoặc các giống dòng, gia tộc ngoại đạo, tà kiến. Trong các cõi trời và người, đi đâu họ cũng gặp Phật pháp, thiện trí thức bằng hữu hoặc những duyên lành, phước lành thù thắng và tối thượng.

Sau khi cuộc lang thang đã mãn, tín, giới, văn, thí, tuệ đã đầy, ba-la-mật đã đủ; nếu muốn, họ dễ dàng chứng quả Tứ Thánh và đắc Niết-bàn để thọ hưởng hạnh phúc siêu thế.

Tất cả chúng sanh trong 3 cõi, 6 đường đều phải biết nương nhờ 10 nghiệp lành này như một kim chỉ nam vô giá quyết định phương hướng cho hạnh phúc các kiếp sống. Thanh Văn Phật, Độc Giác Phật cũng nương nhờ 10 nghiệp lành này mà đầy đủ tâm, đầy đủ tuệ để tận lìa phiền não. Đức Đại Bồ Tát của chúng ta cũng từ 10 nghiệp lành này mà thành tựu 8 minh và 15 hạnh, đắc quả Chánh Đẳng Giác vậy.

Bèn có thơ rằng:

"- Trọn lành mười nghiệp ra đi

Ngán gì gió chướng, sá chi bụi hồng

Trời, người các cõi thong dong

Phúc đầy, duyên đủ vượt dòng tử sinh!”

Kính,

MĐTT
THANK YOU
13-07-2020, 11:42 AM
Bài viết: #274
RE: NEW TOPIC'S DQ
KÍNH MỜI XEM QUA BÁT CHÁNH ĐẠO dựa trên tinh thần Phật giáo Nguyên thủy

Chúng ta quen gọi là Bát Chánh Đạo, nhưng thật ra, cụm từ Pāḷi nghĩa là Bát Đạo (Aṭṭhaṅgikamagga) hay Bát Thánh Đạo (Ariyaṭṭhaṅgikamagga); tất cả chúng đều chỉ Sự Thật Về Con Đường Đi Đến Nơi Diệt Khổ (Dukkha Nirodhamaggasacca), tức là Đạo Đế. Nó có 8 chi phần: Chánh Kiến (sammādiṭṭhi), Chánh Tư Duy (sammāsankappa), Chánh Ngữ (sammāvāca), Chánh Nghiệp (sammākammanta), Chánh mạng (sammā-ājīva), Chánh tinh tấn (sammāvāyāma), Chánh Niệm (sammāsati), Chánh định (sammāsamādhi).

Với nghĩa “sammā” là chánh, là chơn, là đúng đắn; thế có nghĩa là lúc tu tập, chúng ta phải lựa chọn, phân định rạch ròi để tránh rơi vào các xấu, cái ác, cái tà vạy, cái sái quấy? Do vậy, ta còn biết rằng, có 8 con đường xấu ác, sai quấy đối nghịch gọi là Bát Tà Đạo: Tà kiến (micchādiṭṭhi), Tà tư duy (micchāsaṅkappa), Tà ngữ (micchāvāca), Tà nghiệp (micchākammanta), Tà mạng (micchā-ājīva), Tà tinh tấn (micchāvāyāma), Tà niệm (micchāsati), Tà định (micchāsamādhi).

Như vậy, mặc nhiên, từ “micchā” có nghĩa là xấu, là quấy, là tà – và cái nghĩa ấy đã trở thành “mặc định” trong giáo pháp, xưa cũng như nay! Và từ “sammā” ở trên cũng rơi vào nghĩa mặc định ấy, là đúng, là chánh, là chơn?

“Buổi chiều hôm kia, ngồi uống trà trước hiên am, nhìn sang bên kia đồi, tôi thấy một đám mù sương len lỏi, uốn lượn nhẹ nhàng giữa mấy lùm cây xanh rồi từ từ chúng tản mác lên rừng cao... Tôi đang thanh thản thả tâm theo đám sương mù ấy thì chợt tiếng kêu ‘tắc kè, tắc kè’ sau vách tường làm tôi ‘tỉnh’ lại. Ồ! Cái chú tắc kè to lớn các sư mang về từ Ban Mê Thuột đấy mà!”

Cảnh vật tôi vừa thấy, nghe ấy là cái đang diễn ra, chúng là “cái thực” đang duyên khởi qua mắt, qua tai mà ai cũng đã từng kinh qua, chiêm nghiệm. Lúc ấy, cái thấy, cái nghe ấy là chánh, là chơn, hay không chánh, không chơn? Thật ra, khi thấy, nghe cảnh vật thì tôi đang ở trong trạng thái thư xả, nói cách khác, lúc ấy, theo Abhidhamma – là không có tâm tham, sân, si (thiện) hoặc vô tham, vô sân, vô si (bất thiện). Lại nữa, đối tượng cũng là đối tượng tự nhiên, bình thường - được gọi là đối tượng “rất nhỏ” không thể tác động, chi phối tâm ta để phát sanh tham sân, thương, ghét. Vậy thì cái thấy nghe vừa rồi là Chánh Kiến hay không Chánh Kiến?

Thật ra, “sammā” còn nhiều nghĩa khác nữa mà tiếng Hán, tiếng Việt không nói ra hết được. “Sammā” không những có nghĩa chánh, chơn, mà còn có nghĩa đúng đắn, một cách đúng đắn, thích hợp, một cách hoàn toàn, toàn diện... Hoàn toàn, toàn diện... có nghĩa là nó như thế nào thì chụp bắt trọn vẹn nó như thế, không đưa xen cảm tính và tư duy chủ quan của mình vào.

Còn “micchā”? Micchā thì không những nó có nghĩa là xấu, ác, tà vạy, sái quấy... mà còn có nghĩa là phân rẽ, là rời ra, phân ly, chia cắt, là chia manh xẻ mún, là đối nhau, ngược nhau, trái nghịch với “sammā” nữa vậy.

Đến đây thì tôi đã hiểu, tại sao Bát Đạo khi thì gọi là Bát Chánh Đạo, lúc thì gọi là Bát Thánh Đạo. Hóa ra, về phương diện tục đế, lúc đang tu tập thì gọi là Bát Chánh Đạo; đã tu tập vững chắc rồi, bắt đầu đi vào đạo lộ siêu thế thì gọi là Bát Thánh Đạo.

Và như vậy, khi gọi Bát Chánh Đạo là ở phương diện hữu vi, còn sanh y (sanh khởi và nương tựa), thuộc tại thế; khi gọi Bát Thánh Đạo là ở phương diện vô vi, không còn sanh y, thuộc xuất thế.

1- Chánh Kiến (sammā-diṭṭhi).

Rải rác trong Trung Bộ Kinh, đức Phật và tôn giả Sāriputta thuyết về Chánh Tri Kiến, nội dung khá dài nhưng ta có thể tóm tắt cô đọng như sau:

- Thấy rõ (tuệ tri) thiện và bất thiện...

- Thấy rõ căn gốc của thiện và căn gốc của bất thiện

- Thấy rõ căn gốc của thiện là vô tham, vô sân, vô si và căn gốc của bất thiện là tham, sân và si.

- Thấy đúng bản chất của tâm, vật, thế gian, thế giới đều là duyên sinh, vô thường, vô ngã.

- Tóm lại là phải thấy rõ Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên và Tứ Đế.

Đấy là những định nghĩa “kinh điển” mà dường như người học Phật, tu Phật nào cũng hiểu, cũng biết. Tuy nhiên, cái “thấy” ở trên, lấy gì mà thấy? Bằng mắt chăng? Nếu bằng mắt, thì chỉ thấy “tướng” của vật, của cảnh sắc - chứ làm sao thấy đúng, sai, chánh, tà, thiện, ác, duyên sinh vô ngã? Ồ, hóa ra có sự tham dự của ý thức, nhận thức, của tư duy và cả “tuệ tâm sở” ! Còn nữa, “diṭṭhi” đâu phải chỉ có nghĩa là “thấy”; nó có rất nhiều nghĩa: Là lòng tin, sự tin tưởng; là giáo điều, giáo lý; là quan điểm, là lý thuyết, học thuyết; là sự suy xét, sự suy nghĩ, sự nghiên cứu...

Hóa ra, khi “thấy” là toàn bộ thân tâm thấy, nghĩa là toàn bộ sự vận hành của lục căn, lục trần và lục thức (tức 18 giới); và sự thực ấy, nó như sau:

- Mắt thấy sắc đúng như thực (nó sao thì thấy nó như vậy, đúng như mà nó là...): Chánh kiến

- Tai nghe âm thanh như thực (như trên): Chánh văn

- Mũi ngửi hương như thực (như trên): Chánh giác

- Lưỡi nếm vị như thực (như trên): Chánh giác

- Thân xúc chạm như thực (như trên): Chánh giác

- Ý biết pháp như thực (như trên): Chánh tri

Tóm tắt là Chánh kiến, chánh văn, chánh giác, chánh tri; rút gọn là Chánh Tri Kiến hay Chánh Kiến.

Tuy nhiên, người học Phật, tu Phật không dễ gì mà có ngay Chánh Kiến ấy, vì còn nhiều tập khí trong nội tâm, được tích lũy từ vô lượng kiếp nó trào vọt ra, nó tác động duyên sanh làm cho tham sân si nổi lên, chi phối cái nhìn, cái thấy. Lại nữa, trong xã hội hiện nay, do tập quán nhiều đời, do văn hóa cục bộ hoặc thiếu nền tảng nhân văn, nhân bản, do tôn giáo thần vật cùng những học thuyết, chủ thuyết sai lầm làm cho con người không còn giữ được cái nhìn trong sáng, nguyên sơ, trinh tuyền (1) như nghĩa Chánh Kiến ở trên nữa. Do vậy, về phương diện tại thế, lúc tu tập, ta chỉ cần xa lánh, loại trừ tà kiến là có được Chánh Kiến hữu vi này.

Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, thấy phân rời, thấy chia manh xẻ mún; không thấy được cái chơn, cái thực, cái toàn diện, cái toàn bộ thực tại. Như chuyện năm người mù sờ voi, ai cũng đúng cả, đúng từ cái thấy biết cục bộ của mình, mà không đúng với “thực-tại-toàn-bộ-con-voi”! Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy mà chưa hành động thì còn đỡ. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; rồi còn ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến. Và đây là một số tà kiến đang lộng hành và tung bụi mù xấu ác vấy độc thế gian:

- Quan điểm cho rằng, bố thí hoặc những việc làm lành tốt cho xã hội, nhân sinh là việc làm của người dở hơi.

- Quan điểm cho rằng, không có kết quả của thiện nghiệp, ác nghiệp trên đời này.

- Quan điểm cho rằng, ân, hiếu, nghĩa, tình gì gì đó đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái chỉ là trò bày đặt, là màn kịch của nhân sinh.

- Quan điểm, cho rằng, chẳng có lý nhân quả, luân hồi tái sanh gì hết, đó chỉ là bóng khói mù sương huyễn hoặc của tôn giáo, tín ngưỡng của những tâm thức sơ khai.

- Quan điểm cho rằng, cái gì cũng có cả, cái gì cũng không cả; lại vừa có, vừa không, lại không có, không không!

- Quan điểm cho rằng chết là hết, không còn gì, cát bụi trả về cho cát bụi.

- Quan điểm cho rằng, không có kiếp này, kiếp kia, không có thiện ác, không có thiên đường, địa ngục, không có nhân quả báo ứng và không có cả đạo đức, luân lý trên thế gian.

- Quan điểm cho rằng, có một linh hồn, một tự ngã thường hằng bất biến, không thay đổi, đầu thai từ kiếp này sang kiếp kia.

- Quan điểm cho rằng, tất cả tu sĩ từ xưa đến nay chẳng chứng đắc, chẳng thấy, chẳng giác ngộ gì hết. Tuyệt đối không có Thánh nhân trên đời này. A-la-hán và Phật cũng chỉ là nhân vật hư cấu, huyền thoại.

Như vậy, những tà kiến ấy đã đầu độc thế gian, làm cho thế gian đổ nát, hoang vu, điêu tàn, băng hoại. Nó thiêu huỷ, đốt cháy đạo đức, nhân luân, nhân tính cùng các giá trị tinh thần thiêng liêng, cao cả khác. Ngoài ra, rải rác trong kinh điển, còn có những cái gọi là biên kiến, kiến kiết phược, kiến hoang vu, kiến sa mạc, kiến điên đảo, kiến rừng rậm... đều là bà con họ hàng với tà kiến cả vậy.

Người Phật tử phải biết chuyển cái thấy sai thành cái thấy đúng, cái

thấy nghiêng lệch bằng cái thấy chính chơn, cái thấy cục bộ bằng cái thấy toàn diện. Tuy nhiên, chỉ cần thấy ra mọi tà kiến, thấy ghê tởm, ghê sợ mọi tà kiến kể trên thì tâm ta bắt đầu bước sang lãnh vực Chánh Kiến rồi vậy. Từ đây, từ sự thấy biết chơn chánh, đúng đắn này, nhìn ngắm bản thân và thế giới, quan sát, minh sát nó để thấy rõ mọi kết hợp, giả hợp vô thường; thấy rõ thực tướng của mọi hữu vi pháp; đến chỗ này thì Chánh Kiến này đã đồng nghĩa với tuệ tri rồi vậy.

2- Chánh Tư Duy (sammāsankappa).

Từ sankappa, từ lâu ai cũng dịch là tư duy (suy nghĩ); tuy nhiên, tùy theo văn cảnh, ngữ cảnh, đối cơ mà sankappa còn có nghĩa là ý nghĩ, tư tưởng, ý định, chủ đích, mục đích... Vậy, ta còn phải hiểu Chánh Tư Duy còn có nghĩa là ý nghĩ chơn chánh, tư tưởng chơn chánh, ý định chơn chánh, chủ đích chơn chánh và mục tiêu chơn chánh nữa.

Với nghĩa rộng như vậy, nếu Chánh Kiến tại thế là loại trừ tà kiến, thì Chánh Tư Duy phải loại trừ 3 tà tư duy, còn gọi là ba bất thiện tầm (akusalavitakka).

“Vitakka” là tầm, là tìm kiếm; tuy nhiên, tương tợ như sankappa, nó có cùng một trường nghĩa với nghĩ tưởng, suy tưởng, suy tầm, suy gẫm nữa.

Vậy, muốn có Chánh Tư Duy, người tu Phật phải biết lìa xa 3 bất thiện tầm sau đây:

- Dục tầm (kāmavitakka): Là tìm kiếm, suy nghĩ, nghĩ tưởng, suy tưởng, suy tầm - tìm cách thỏa mãn những ham muốn dục lạc qua mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Khi đắm chìm trong khao khát, tham muốn ấy, và do chúng dẫn dắt, ta có thể tạo những nghiệp bất thiện.

- Sân tầm (byāpādavitakka): Gặp những đối tượng ta ganh ghét, đố kỵ, tỵ hiềm; gặp những hoàn cảnh trái ý, nghịch lòng, tâm trí ta như chìm đắm trong những suy nghĩ, nghĩ tưởng... bực bội, bất mãn, phẫn nộ, sân hận.

- Hại tầm (vihiṃsavitakka): Từ sân tầm ở trên nếu không được thấy rõ (tuệ tri) thì tâm trí càng bị nung đốt, có thể dẫn đến những suy nghĩ, nghĩ tưởng về mưu kế, thủ đoạn ác độc, bạo tàn để họa hại người khác.

Người có Chánh Kiến, thêm Chánh Tư Duy tiếp năng lực, sẽ lấy “tư duy ly dục” để đối trị với “dục tầm”, lấy “tư duy ly sân” để đối trị với “sân tầm” và lấy “tư duy vô hại” để đối trị với “hại tầm”:

2.1- Tư duy ly dục (nekkhammakāmavitakka):

Những trạng thái tâm như khát vọng, tham muốn dục lạc lúc xen dự vào “cái thấy”, nó sẽ tung hỏa mù, nó sẽ làm lệch chiều, lệch hướng để tạo tác những nghiệp bất thiện qua thân khẩu ý nên ta phải có tư duy ly dục để đối trị với dục tầm.

Như vậy có nghĩa là những đối tượng của ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc), thuộc đối tượng “rất lớn” (2) dễ khích thích, tác động đến ta, nó duyên khởi với tâm ái dục của ta tức khắc thì nên thu thúc, gìn giữ (giới) hay tránh xa, viễn ly nó - đấy được gọi là tư duy ly dục.

2.2- Tư duy ly sân (nekkhammabyādavitakka):

Những trạng thái tâm như nóng nảy, khó chịu, bực bội, không vừa lòng, không thích ý - nếu không được nhìn thấy thì nó sẽ dẫn đến sân si, giận dữ, biểu hiện qua thân khẩu ý để tạo nghiệp bất thiện. Do vậy, ta phải thu thúc, gìn giữ, tìm cách xa lánh nó, viễn ly nó, đấy được gọi là tư duy ly sân - còn được gọi là tư duy vô sân. Vì theo Abhidhamma, vô sân đồng nghĩa với tâm từ (mettā) nên nuôi dưỡng tâm từ cũng là cách đối trị với tâm sân vậy.

2.3- Tư duy ly hại (nekkhammavihiṃsavitakka):

Trạng thái tâm sân (dosa) thường như lửa đốt, nếu không được dập tắt thì nó sẽ như than hồng âm ỉ ngày đêm để trở thành phiền ưu (domanassa-ưu). Nếu phiền ưu này không được nguội tắt nó sẽ gia tăng cấp độ mà biến thành ưu hận (paṭighā-hận). Và nếu khi đã phẫn hận rồi sẽ sinh ra hung ác, bạo tàn... có khả năng hủy diệt đối tượng mà không kềm giữ nổi. Biết rõ sự nguy hại như vậy - hại mình, hại người, hại cả hai - nên ta phải nuôi dưỡng tư duy ly hại.

Nếu tâm từ (mettā) dập tắt được tâm sân - thì tâm bi (karuṇā) sẽ dập tắt được tâm hại; nói cách khác, nuôi dưỡng tâm bi đã là tư duy ly hại rồi.

Đấy là những diễn tiến bình thường của tâm phàm phu chưa được rèn luyện, chưa được tu tập; nói cách khác là khi Chánh Kiến chưa được triển khai đúng đắn, chưa được đèn tuệ thường trực thắp sáng thì bóng tối của vô minh khỏa lấp ngay. Nhưng khi đã có Chánh Kiến rồi, thấy biết chơn chánh, đúng đắn rồi – thì nó chuyển qua Chánh Tư Duy tức khắc. Và dĩ nhiên, Chánh Tư Duy nầy sẽ bao quát, nội hàm tư duy ly dục, tư duy ly sân và tư duy ly hại rồi!

Ai cũng biết rằng, tư tưởng, tâm niệm dẫn dắt hành động. Tư tưởng, tâm niệm thanh cao, trong lành thì con người trở nên hiền thiện, cao nhã. Tư tưởng, tâm niệm xấu ác, thấp hèn thì con người trở nên bần tiện, hạ liệt. Tư tưởng, tâm niệm có thể nuôi dưỡng, nâng đỡ thế gian mà tư tưởng, tâm niệm có thể tàn hoại, hủy diệt thế gian.

Do vậy, người có Chánh Tư Duy luôn từ khước những ý nghĩ mang dục vọng trần tục, vị kỷ, bám víu vào của cải, tài sản, danh lợi, sắc tài; ngược lại, nuôi dưỡng những tư tưởng vị tha, nhân ái, thanh cao – và đấy chính là ý nghĩa đích thực của từ “nekkhamma” - xuất gia, rời khỏi, lìa khỏi – là tư duy ly tham, ly dục (nekkhammakāmavitakka) vậy. Thứ nữa, ta còn cần phải khước từ, từ chối, viễn ly (nekkhamma) những ý nghĩ, tư tưởng, tâm niệm mang những mầm giống độc hại, đó là ác ý, ghét ganh, giận tức - ngược lại, nuôi dưỡng những phẩm tính trong lành, cao đẹp, mát mẻ - đó là thiện ý, hòa ái, tương ái, thiện hảo, hảo tâm và cao diệu nhất là tâm từ, nó có khả năng lắng dịu tâm sân, giải trừ tâm sân, đối trị trực tiếp với tâm sân, gọi là tư duy ly sân (nekkhammabyādavitakka) vậy. Còn nữa, nếu tâm sân, ưu là lửa cháy âm ỉ thì tâm hại là lửa phực cháy thiêu đốt người, vật tức khắc. Do thế, phẩm tính thứ ba của Chánh Tư Duy là khước từ, rời khỏi những ý nghĩ độc ác, hung dữ, thù hận, bạo tàn và phải nuôi dưỡng những tâm niệm về tình thương, lòng trắc ẩn, trái tim bi mẫn đối với cuộc đời – là tư duy ly hại “ (nekkhammavihiṃsavitakka) vậy.

3- Chánh Ngữ (sammāvāca).

Nếu có Chánh Kiến tức khắc có Chánh Tư Duy, và theo đó sẽ có Chánh Ngữ. Tuy nhiên, đấy là trình độ của bậc thánh, của những hành giả đang trên đạo lộ siêu thế hoặc ở nơi những người có thượng căn, thượng trí.

Chúng ta là người đang học Phật, tu Phật; lại do tham sân, phiền não luôn tác động làm lệch hướng kiến và tư duy chơn chánh; vậy nên cần phải đi từng bước một, tuần tự thứ lớp mới có được Chánh Ngữ trọn vẹn.

3.1- Lìa xa 4 khẩu ác nghiệp:

- Không được nói dối, nói sai sự thật

- Không được nói lời thêu dệt, có nói không, không nói có, nói vu oan, vu cáo hại người.

- Không được nói lời cay chua, độc ác, chưới mắng, phỉ báng, cộc cằn, thô lỗ...

- Không nói lời nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm, tục tỉu, vô duyên...

Ngoài ra, những cách nói như nói châm chích, nói dệt gấm thêu hoa, nói ngọt như đường, như mật, nói văn hoa, kiểu cách... chúng ta cũng nên tránh.

3.2- Hun đúc, trưởng dưỡng, tập nói những điều hay, tốt:

Sau khi đã lìa xa 4 khẩu ác nghiệp, người Phật tử phải tập những lời nói, cách nói, mục đích nói hướng đến điều chân, lẽ thiện để huân trưởng những hạt giống lành ở trong tâm:

- Nên nói về bố thí, trì giới, tham thiền.

- Nên nói về tình thương, nhân ái, vị tha với cộng đồng, xã hội.

- Nên nói về bốn vô lượng tâm.

- Nên nói về đức tin, lẽ phải, điều lành, việc lành.

- Nên nói về sự đùm bọc, sẻ chia đến những kẻ bất hạnh.

- Nên nói về chánh tri, Chánh Kiến để loại bỏ tà tri, tà kiến...

- Nên nói về trí tuệ để giúp ta rèn luyện sự sáng suốt, phát triển khả năng thấu triệt chân lý...

3.3- Đi vào Chánh Ngữ:

Từ bước 1 sang bước 2, tâm ta đã thuần thục với thiện pháp; nó lại có công năng làm cho tư duy và kiến càng thêm trong sáng. Từ đây, ta dễ dàng đi vào Chánh Ngữ.

Chúng ta cần biết rằng:

- Những lời nói dịu dàng, từ ái, mềm mỏng, nhu thuận... dễ nghe, dễ vừa lòng mọi người - đấy được gọi là “mỹ ngữ”.

- Những lời nói có ý lành tốt, cốt ý mang lại an vui, lợi lạc cho người khác trên đường tu tập, hướng thượng – thì được gọi là “thiện ngữ”.

- Những lời nói y cứ trên sự thật, đúng với sự thật, đúng với chân lý – thì được gọi là “chân ngữ”.

Nếu lời nói có mỹ, thiếu chân và thiện là sẽ trở thành hình thức lừa mị, đãi bôi, khách sáo, dối người; là đóa hoa giấy lòe loẹt sắc màu mà không có hương thơm. Lời nói có chân, thiện mà không có mỹ thì nói chẳng ai nghe, không nhiếp phục, cảm hóa được người. Lời nói có thiện, mỹ mà không có chân là xây lâu đài trên cát, con thuyền đi không có hướng về. Lời nói có chân, mỹ mà không có thiện thì không mang được điều lành tốt cho thế gian.

Chân phải được xem như cái “thể”, cái gốc - còn thiện mỹ là “tướng dụng”, là cành nhánh và hoa trái.

Vậy, một Chánh Ngữ toàn diện thì phải đầy đủ chân thiện mỹ, đầy đủ thể tướng dụng vậy.

4- Chánh Nghiệp (sammākammanta).

Kamma là nghiệp, là hành động. Vậy, Chánh Nghiệp là hành động chơn chánh, đúng đắn.

Khi cái thấy biết trong sáng dẫn đạo, có tuệ tri làm ngọn đèn soi rọi thì những tâm niệm, tư tưởng có thiên hướng xấu ác, tối tăm về vật dục, về tham luyến, vị kỷ, về nóng nảy, giận dữ, hung ác, hiểm độc, bạo tàn... đều bị đẩy lùi, xa lánh – là đã trọn vẹn cả kiến và tư duy rồi. Nói cách khác, từ ý nghiệp (Chánh Tư Duy) trong sáng thì ngữ nghiệp và thân nghiệp cũng được điều chỉnh theo. Ngữ nghiệp hay khẩu nghiệp đã biến thành Chánh Ngữ thì thân nghiệp cũng biến thành Chánh Nghiệp.

Chánh Nghiệp ai cũng hiểu là tránh xa sát sanh, trộm cắp, tà hạnh. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó. Cái thân của ngu nhân không những là sát sanh, trộm cắp, tà hạnh mà còn thỏa mãn xác thân, lo cho cái thân ăn ngon, mặc đẹp, ngủ khỏe, tẩm bổ xác thân, nô lệ xác thân cho đến trọn đời. Còn cái thân của bậc trí nhân lại khác. Khi có Chánh Nghiệp rồi, họ còn ăn uống chừng mực, ngủ nghỉ chừng mực, tiết độ trong mọi nhu cầu thân xác, sống đời giản dị, tri túc. Họ không những biết rời xa, viễn ly, xa lánh sát sanh, trộm cắp, tà hạnh... mà còn biết dùng cái thân ấy để giúp đỡ người hoạn nạn, kẻ ốm đau, tật nguyền, bất hạnh. Cái thân ấy biết gánh vác những công việc nặng nhọc giúp bạn đồng tu, cho gia đình, cho thân bằng quyến thuộc, bè bạn, cộng đồng xã hội. Không biết bao nhiêu là tấm gương của đại bồ-tát rải rác trong Túc sanh truyện đã xả thân, hy sinh bản thân mình cho đồng loại, cho cả hạng chúng sanh thấp hèn nữa. Và thế là trên con đường tu tập, những bụi rác của vị kỷ, bản ngã, tham sân si bị rơi rụng dần dần - người học Phật không còn tiếc một giọt mồ hôi, một giọt máu cho người khác có thêm sức mạnh hoặc mạng sống. Thời đại ngày nay cũng còn sáng rỡ những trên mạng truyền thông, có người nguyện khi chết để lại cái thân cho phòng thí nghiệm. Có người lao xuống sông cứu người chết đuối. Có người lao vào lửa cháy để cứu người lâm nạn. Có người hiến máu, hiến tủy, hiến võng mạc, hiến lá lách, hiến thận... cho người khác cần để sống. Ồ, hóa ra, khi ý biết xa rời, viễn ly xấu ác thì khẩu cũng biết xa rời viễn ly xấu ác; đến cái thân thì nó trở thành ích dụng cho xã hội, nhân quần.
Ôi! Cao đẹp thay là Chánh Nghiệp của bậc trí nhân trên đời này vậy!

5- Chánh Mạng (sammā-ājīva).

Ājīva là sự nuôi mạng sống, sự sanh sống. Chánh Mạng là nuôi mạng sống một cách chơn chánh, là lìa xa những nghề nghiệp có phương hại đến mình và người khác, chúng sanh khác.

Người Phật tử tu tập theo con đường Bát Chánh, sau khi có kiến, tư duy, ngữ, nghiệp trong sạch rồi, nhưng sống giữa cuộc đời cần phải có cơm ăn, áo mặc, nhà cửa che mưa đỡ nắng và những nhu dụng cần thiết cho mọi tiện nghi sinh hoạt. Họ phải có công ăn, việc làm nuôi sống bản thân và gia đình. Tuy nhiên, giữa cõi trần đầy dẫy tham lam sân hận, đầy dẫy cướp bóc, lừa gạt, mưu đồ... thì việc lựa chọn nghề nghiệp để nuôi mạng một cách chơn chánh cũng không phải dễ dàng.

Dường như xã hội càng phát triển thì tiện nghi sinh sống càng cao; kéo theo biết bao nhiêu nhu cầu cần phải đáp ứng, thỏa mãn. Do vậy, ai cũng lao đầu vào công việc để kiếm tiền, bất cứ nghề nghiệp gì, miễn có tiền là được. Có kẻ kiếm tiền không kể đến đạo đức, luân lý. Có kẻ kiếm tiền bất chấp thủ đoạn ranh ma, xảo quyệt. Có kẻ kiếm tiền để rơi mất luôn nhân tính. Có kẻ kiếm tiền không ngán hình lao, tù ngục. Có kẻ kiếm tiền không đếm xỉa đến mạng sống của người khác. Có kẻ kiếm tiền bất kể độc ác, bạo tàn... Xem tình cảnh đao đức và nhân luân xuống cấp, sa đọa như thế, chắc chắn người hiền lành, kẻ có lương tri sẽ không đi theo con đường tội ác ấy để kiếm tiền, mà họ sẽ chọn những nghề nghiệp tương đối vô hại giữa cuộc đời để giữ gìn cho tâm trí và bàn tay của mình được trong sạch. Không phải từ bây giờ, mà đã tự ngàn xưa, đức Phật đã khuyên cận sự nam nữ hai hàng nên tránh xa 5 nghề nghiệp nguy hại, được coi là tà mạng, khái quát như sau:

- Nghề đồ tể, giết mổ động vật.

- Nghề buôn bán vũ khí, chất nổ, đao kiếm sát thương.

- Nghề buôn bán người, nô bộc hay súc vật cho người ta giết thịt.

- Nghề buôn bán độc dược, độc chất.

- Nghề buôn bán rượu, các chất gây say (như ma túy các loại hiện nay).

Nếu tránh xa được 5 loại nghề nghiệp ấy, bậc trí theo con đường chánh mạng còn cần phải có lương tâm và trách nhiệm trong nghề nghiệp mà mình đã chọn lựa. Ví như thầy giáo phải là thầy giáo có lương tâm và trách nhiệm. Ví như thầy thuốc thì phải là thầy thuốc có lương tâm và trách nhiệm. Nhà báo, nhà văn, lái xe, y tá, làm ruộng, nghệ sĩ, công chức, mở cửa hàng, kỹ sư... đều phải có lương tâm và trách nhiệm cả thảy.

Riêng giới tu sĩ thì có nguyên cả một thống kê dài về việc nuôi mạng này, điều nên làm và điều không nên làm. Tuy nhiên, ta có thể gói gọn trong “Nuôi mạng thanh tịnh giới” (Ājīva pārisuddhisīla), ở đây được coi như là những giới điều phải y chỉ, thực hành:

- Là vị tỳ-khưu, đi trì bình khất thực, ai cúng dường gì thì dùng nấy.

- Là vị tỳ-khưu, có thể thọ dụng vật thực do thiện tín cúng dường đúng pháp và luật.

- Là vị tỳ-khưu, tránh xa những cách kiếm ăn do giả dối, làm bộ cao thượng, nịnh hót, bợ đỡ, lấy lợi câu lợi.

- Là vị tỳ-khưu, tránh xa những nghề tà vạy để kiếm vật thực nuôi mạng như làm mai dong, thầy bói toán, thầy địa lý, thầy thuốc, thầy coi tử vi, nhân tướng học, ngày giờ tốt xấu...

Nói tóm lại, dù tăng hay tục thì vấn đề nuôi mạng chơn chánh giữa cuộc đời này, đúng là một thử thách lớn lao. May ra, chỉ có bậc thiện trí tha thiết với con đường, chân thành, trung tín với con đường mới đi đúng với mục tiêu giác ngộ, giải thoát. Vì nếu không thực hành Đạo Đế (Bát Chánh) thì không có ở đâu, không có ai mở cửa Diệt Đế được vậy.

6- Chánh Tinh Tấn (sammāvāyāma).

Vāyāma là cố gắng, là ráng sức, là nỗ lực, là cần chuyên, là tinh tấn.

Nếu ngữ nghĩa là vậy thì khi đang nằm “đườn” ra, ta cố gắng ngồi dậy thì cũng cần phải có tấn. Khi đang mệt mỏi, biếng nhác, ta ráng sức

nhấc tay nhấc chân làm việc này, việc kia một chút cũng phải có tấn. Khi nâng một vật nặng, ta phải phải vận dụng hết sức mình cũng phải có tấn. Vậy thì trong sinh hoạt thường nhật, đi, đứng, nằm, ngồi đều phải có tấn. Mọi công việc, nghề nghiệp mưu sinh, học hành, thi cử... nếu không có nỗ lực, cố gắng, cần chuyên thì ta sẽ thất bại. Cho đến giết người, cướp của, làm những việc xấu ác... cũng phải có tấn. Người có quy giới, bố thí, tham thiền hay làm việc lành tốt cũng phải có tấn. Suy ra, sống trên đời này, ai cũng phải có tấn, cách này hay cách khác.

Như thế, với những ví dụ khái quát như trên thì tấn chỉ thuần là một năng lực tiếp truyền sức mạnh chứ chưa mang tính chất đạo đức, thiện ác. Do vậy, không ngạc nhiên gì khi trong Abhidhamma, tấn (viriya) không phải là một tâm, nó chỉ là một tâm sở trung tính (3). Vì là trung tính nên nó không nằm trong những tâm sở thiện hoặc bất thiện (4). Khi ta làm việc ác, thập ác nghiệp, nếu có tấn giúp sức, thêm năng lực thì nghiệp ác kia lại càng ác hơn; ngược lại là thập thiện nghiệp thì việc lành tốt càng lành tốt hơn..

Vậy nên, những cố gắng, nỗ lực để làm điều sai xấu, nhúng tay vào tội ác – thì gọi là “tà tinh tấn”. Còn những cố gắng, nỗ lực để làm điều lành tốt, đúng đắn, hướng đến giác ngộ, giải thoát thì gọi là Chánh Tinh Tấn.

Ở đây, trong nội dung của Bát Chánh Đạo – thì tấn-viriya (trung tính) hoặc tấn-vāyāma (nam tính) hầu như là đã xác định ngữ nghĩa đúng đắn chơn chánh của nó rồi.

Vậy, sammāvāyāma, cô đọng lại, có bốn tinh tấn chơn chánh:

- Ác vị sanh, sử bất sanh: Minh sát tâm, lắng nghe tâm, nếu chưa có một ý nghĩ, một tư tưởng, một tâm niệm xấu ác nào khởi sanh thì hãy nỗ lực khiến cho nó đừng phát sanh.

- Ác dĩ sanh, sử trừ đoạn: Minh sát tâm, lắng nghe tâm, nếu đã có một ý nghĩ, một tư tưởng, một tâm niệm xấu ác nào khởi sanh rồi thì hãy nỗ lực khiến cho nó được trừ diệt.

- Thiện vị sanh, sử phát sanh: Minh sát tâm, lắng nghe tâm, nếu chưa có một ý nghĩ, một tư tưởng, một tâm niệm tốt lành nào chưa khởi sanh thì hãy nỗ lực khiến cho nó phát sanh.

- Thiện dĩ sanh, sử tăng trưởng: Minh sát tâm, lắng nghe tâm, nếu đã có một ý nghĩ, một tư tưởng, một tâm niệm tốt lành nào khởi sanh rồi thì hãy nỗ lực khiến cho nó tăng trưởng thêm nữa.

Nghe cô đọng đơn giản như vậy nhưng đấy là cả một công phu lâu dài, sâu nhiệm. Phải cần có tuệ quán, minh sát Tứ Niệm Xứ như thế nào, cụ thể là “quán tâm” miên mật như thế nào, mới thấy rõ, biết rõ những vọng móng, dấy khởi của tâm niệm. Một hành giả tu tuệ quán, minh sát đến giai đoạn thấy được tâm mình vừa khởi lên, biết ngay thiện hay ác là họ đã đi xa trên lộ trình Bát Chánh rồi.

Điều cuối cùng chúng ta nên lưu ý, tinh tấn được định nghĩa là cố gắng, là ráng sức, là nỗ lực, là cần chuyên, là nhiệt huyết, đôi khi còn có nghĩa là dõng mãnh, kiên cường nữa; tuy nhiên, đừng nên rơi vào cực đoan, vì ý chí, quyết tâm mạnh mẽ quá mức sẽ tiêu hao năng lực, mệt mỏi, thần kinh căng thẳng. Theo phép trung đạo, ta chỉ cần giữ thăng bằng đúng mức độ cần thiết, đừng dể duôi, giải đãi, thờ ơ, lơ là, lơi lỏng trong khi chú tâm theo dõi ý niệm, tư tưởng của mình là được rồi. Và nếu tinh tấn hỗ trợ cho các chi phần trong Bát Chánh Đạo khác cũng tương tợ như vậy.

7- Chánh Niệm (sammāsati).

Sati là niệm. Niệm là ghi nhớ, ghi nhận, chú tâm những gì đang xảy ra, đang duyên khởi, tác động qua căn-trần-thức.

Còn sammā thì ta đã hiểu rồi; vậy sammāsati là chú tâm toàn diện, chân xác đối tượng - bất kể đối tượng ấy đẹp hay xấu, méo hay tròn, thiện hay ác; có nghĩa là nó như thế nào thì chụp bắt trọn vẹn nó như thế (như máy chụp hình) không chia chẻ, phân tích, không đưa xen cảm tính và tư duy chủ quan của mình vào.

Nói cách khác, Chánh Niệm là trở lại với thân thọ tâm pháp, nó như thế nào thì để nó như thế, chú tâm vào đó, đừng quên mình, đừng xa rời cái thực tại đang là. Nếu nó đang lang thang rong chơi ở đâu đó (tâm bất tại) thì gọi là thất niệm. Nếu nó đắm chìm trong những đối tượng để phát sanh tham sân, thương ghét, ưu hận gì đó thì gọi là tà niệm.

Nói cho có hình tượng cụ thể và dễ hiểu hơn – Chánh Niệm là người đứng canh cửa thân tâm. Người canh cửa thì ai đi vô, đi ra thì anh phải ghi nhớ, ghi nhận. Cái gì, pháp nào đi vô, đi ra thân tâm đều phải đi qua Chánh Niệm, vì là người đứng canh cửa. Chánh Niệm đứng và chú tâm trọn vẹn ở đấy, rất nghiêm túc, cần mẫn, không lơ là, không thất niệm. Nhiệm vụ của Chánh Niệm chỉ có vậy - đừng có làm cái phận việc “thấy rõ, biết rõ hoặc phân biệt kẻ xấu và người tốt - vì thấy rõ, biết rõ là nhiệm vụ của Chánh Kiến (tuệ tri) và phân biệt người tốt kẻ xấu là phần việc của Chánh Tư Duy!”

Đi vào kinh điển, khi nói Chánh Niệm thì ở đâu cũng đề cập Tứ Niệm Xứ. Nhưng khi tu tập Tứ Niệm Xứ thì không đơn thuần chỉ sử dụng Chánh Niệm mà còn sử dụng cả Chánh Kiến, Chánh Tinh Tấn nữa.

Cụ thể khi Quán Thân Niệm Xứ (kāyānupassanāsatipaṭṭhāna), kinh văn như sau:

“- Hành giả sống quán thân trên thân (kāye kāyānupassī viharati), tinh cần (ātāpi), Chánh Niệm (satimā), tỉnh giác (sampajāno) chế ngự tham ưu ở đời (loke abhijjhā domanassaṃ)” (5).

Và Quán Thọ Niệm Xứ, Quán Tâm Niệm Xứ, Quán Pháp Niệm Xứ cũng cùng một câu kinh văn tương tự.

Nếu niệm là đại biểu cho nhóm định (niệm, định), tỉnh giác là đại biểu cho nhóm tuệ (kiến, tư duy), và tinh tấn đại biểu cho nhóm giới (ngữ, nghiệp, mạng) thì tu tập minh sát ta phải sử dụng toàn bộ chức năng của Bát Chánh Đạo vậy.

Đến đây, ta có thể xác định Chánh Niệm là giai đoạn đầu tiên, nền tảng để an lập, làm cho lắng yên thân thọ tâm pháp – như đặt yên ly nước xuống bàn - từ đó Chánh Kiến và Chánh Tinh Tấn làm việc. Nói như thế là có ba đạo chi cùng tham dự, nhưng nó không gián cách đâu, mà nó xảy ra đồng thời.

Ta có thể theo dõi để biết niệm chỉ là giai đoạn đầu:

1- Niệm thân: Gồm 32 thể trược, hơi thở vào ra, bốn oai nghi, tất cả hoạt động, bốn đại, mười loại tử thi...

2- Niệm thọ: Gồm khổ, lạc, xả (ơ nơi thân) và hỷ, ưu, xả (ở nơi tâm)

3- Niệm tâm: Gồm có 16 loại tâm, ví dụ: Tâm có tham, tâm không tham, tâm có sân, tâm không sân, tâm có si, tâm không si...

4- Niệm pháp: Gồm có 5 triền cái, 5 thủ uẩn, 12 nhân duyên, mười hai xứ, thất giác chi, tứ diệu đế...

Từ niệm ghi nhận, chú tâm này, ví dụ như tóc, lông (32 thể trược), hơi thở vào ra, đi đứng nằm ngồi, nhai nuốt, mặc y mang bát..., thân xúc với cứng, mềm, trơn, nhám (tứ đại)... nếu khi đang làm gì, tiếp xúc với cái gì, đối tượng là cái gì thì đều “trọn vẹn” với cái ấy là Chánh Niệm. Tuy nhiên, có người từ niệm nầy lại nghiêng qua tưởng (saññā) hay kết hợp với tưởng thì gọi là “tưởng niệm” như tưởng niệm ân đức Phật, đức Pháp, đức Tăng chỉ đến cận hành định. Có người nghiêng về quán hay kết hợp với quán thì gọi là “quán niệm” , như Quán Thân Niệm Xứ thì có thêm cả tinh cần và tỉnh giác như nói ở trên; cũng tương tự vậy, là Quán Thọ Niệm Xứ, Quán Tâm Niệm Xứ, Quán Pháp Niệm Xứ thấy rõ tam tướng, diệt tận khổ đau, phiền não.

8- Chánh Định (sammāsamādhi).

Samādhi, định, là trạng thái tâm an chỉ, vắng lặng.

Trong đời sống của chúng ta, hãy chiêm nghiệm:

- Nếu chỉ cần chú tâm một giây khắc là ta đã có định, được gọi là sát-na định.

- Nếu chú tâm khá lâu vào một đối tượng nào đó, ví dụ như khii đang chăm chú đọc sách; vì chăm chú quá nên không còn hay biết cái gì đang xảy ra ở xung quanh thì đấy là định, được gọi là phiến thời định.

- Nếu lựa chọn đề mục, ví dụ như niệm Phật thì ta có thể đi vào gần gần định, được gọi là cận hành định.

Cả ba loại định trên thuộc tâm dục giới.

- Nếu lựa chọn các đề mục sắc pháp ví dụ như 10 đối tượng kasiṇa (đất, nước, lửa, gió, xanh, đỏ, trắng, vàng, hư không, ánh sáng) thì ta sẽ đi sâu vào định, được gọi là định sơ thiền hay an chỉ định, đã từ bỏ dục giới, thuộc tâm thiền sắc giới.

Có hai loai định: Định trong định và định có tuệ:

8.1- Định trong định: Tức là định trong các tầng thiền Sắc giới và Vô Sắc giới:

Khi hành giả lựa chọn một trong 10 đề mục kasiṇa, lúc 5 thiền chi xuất hiện đối trị 5 triền cái thì tâm đã tĩnh chỉ, an bình để đi vào định sơ thiền:

- Sơ thiền: Tầm, tứ, phỉ, lạc, nhất tâm

- Nhị thiền: Phỉ, lạc, nhất tâm.

- Tam thiền: Lạc, nhất tâm.

- Tứ thiền: Xả, nhất tâm.

- Không vô biên thiền: Xả, nhất tâm

- Thức vô biên thiền: Xả, nhất tâm

- Vô sở hữu thiền: Xả, nhất tâm.

- Phi tưởng, phi phi tưởng thiền: Xả, nhất tâm.

Đây là định ngàn xưa của bà-la-môn giáo. Khi Bồ-tát Siddhattha trong giai đoạn tầm cầu tu học, ngài đã học được, đã thân chứng được hai tầng thiền cao nhất là “Vô sở hữu thiền” và “Phi tưởng phi phi tưởng thiền”, nơi hai vị đạo sư Ālāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta – nhưng ngài nhận thấy những định này chưa đi đến chỗ giải thoát nên ngài từ bỏ. Sau đó, trọn 6 năm khổ hạnh, Bồ-tát cũng thấy là sai lầm. Cuối cùng, ngài chọn con đường Trung Đạo, ăn mỗi ngày một bữa. Tại cội bồ-đề, ngài đã tự tìm con đường cho riêng mình, sau đó đắc quả Chánh Đẳng Giác.

“Con đường cho riêng mình”, do ngài nhớ lại thuở 5 tuổi khi theo phụ vương đi dự lễ hạ điền, tại cội cây hồng táo, với “tâm thức trẻ thơ, hồn nhiên”, ngài đã dễ dàng đi vào định sơ thiền. Nên tại cội bồ-đề, ngài chỉ thư thái, nhẹ nhàng theo dõi hơi thở, một hồi là ngài đã đi vào định sơ thiền, nhẹ nhàng đi vào nhị thiền, tam thiền, tứ thiền... Sau này, khi ngài diễn đạt lại nội dung sơ thiền ấy, ngài nói: “Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ!” Như thế, định của ngài là định do ly dục, ly ác pháp nên khác định của bà-la-môn giáo thời bấy giờ. Hơn thế nữa, ngài lại không chấp trước định ấy, ngài dùng định ấy để cho cả khối thân tâm trở nên thuần nhất, tâm và trí hoàn toàn tĩnh lặng và thanh khiết - trở lại cận hành định, ngài dùng giác niệm lung linh soi chiếu, minh sát, không thấy trong, không thấy ngoài, không thấy ngã, không thấy ngã sở. Khi quán chiếu tự thân đã trở nên rỗng suốt, sáng trong... thì không có một dấy khởi, một duyên khởi nào mà không hiện ra trước tuệ giác tinh minh của ngài... Như vậy, Bồ-tát đã nương tựa nơi các định (không phải sở đăc) để làm lắng dịu ác pháp, tham dục, tâm trở nên thuần khiết sau đó mới bước sang minh sát, tuệ quán ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên...

Vậy tạm thời chúng ta hiểu rằng, các định không sở đắc, rời các dục và các ác pháp – chính là Chánh Định vậy, và là định trong định.

8.2- Định có tuệ:

Định này từ niệm mà có. Nếu niệm là thả thân tâm xuống, cứ để cho nó yên là đã có định nầy. Đôi khi chỉ cần lắng nghe, theo dõi 5, 7 hơi thở là đã có định nầy. Chúng có thể là sát-na định, vài ba phút định hay phiến thời định. Đây là định trong sinh hoạt thường nhật khi nấu ăn, khi giặt giũ, khi lái xe, khi làm vườn, khi dạy dỗ con cái, lúc đợi xe tàu, lúc xếp hàng mua vé, những khi lắng nghe cảm xúc, cả những khi đối diện với những sân nộ bất thường. Là cả thiên hình vạn trạng trong đời sống, nó cần định nầy để tạo sự ổn định tâm, giúp ta bình tĩnh, tự chủ, an định trong mọi lúc, trong mọi khi.

Tuy nhiên, chúng ta lưu ý:

- Định trong định, hành giả không sở đắc các định, không chấp thủ hỷ lạc của thiền, chỉ mượn định để ly dục, ly ác pháp - trở lại cận hành để quay sang tu tuệ quán, thấy rõ thực tướng để giải thoát vô minh, ái dục - mới được gọi là Chánh Định.

- Trong định có tuệ, người tu Phật cần các loại định (như trên) để ổn định thân tâm, sau đó thường trực lấy tuệ chiếu soi trong mọi sinh hoạt của đời sống. Do có tuệ chiếu soi rồi mới hành động qua thân, khẩu

ý nên dĩ nhiên, khi có chánh kiến, chánh tư duy dẫn đường thì ngữ, nghiệp, mạng, tinh tấn theo đó, sẽ trở nên chơn chánh. Vậy định có tuệ nầy phải là định chơn chánh, là Chánh Định vậy.

Nói tóm lại, Đạo Đế có 8 chi phần, nhưng chúng liên kết với nhau. Chúng liên kết với nhau thường thường là theo tuyến tính, ví dụ, chánh kiến, chánh tư duy rồi chánh ngữ...

Mà cũng có thể chúng liên kết với nhau theo vòng tròn, chẳng biết chi nào trước, chi nào sau; mà lạ lùng, chi nào trước, chi nào sau cũng được cả. Ví dụ, có người hỏi: Làm sao ta có thể có Chánh Kiến mà trước đó không có Chánh Niệm, Chánh Định? Ta làm sao có Chánh Niệm, Chánh Định - nếu Ngữ, Nghiệp, Mạng không thanh tịnh? Làm sao Ngữ, Nghiệp, Mạng thanh tịnh nếu không có Chánh Kiến và Chánh Tư Duy dẫn dắt?

Tuy nhiên, nếu nói vòng tròn là đúng - thì tại sao Giới, Định, Tuệ lại sắp đặt theo tuyến tính: Giới năng sinh Định, Định năng sinh Tuệ? (Do Giới đại biểu cho Ngữ, Nghiệp, Mạng; Định đại biểu cho Niệm, Định); Tuệ đại biểu cho Kiến và Tư Duy).

Thật ra, tuyến tính hay vòng tròn đều đúng cả.

Tuyến tính Giới, Định, Tuệ, dành cho người sơ cơ, phải cần Giới trước để ngăn ác, tòng thiện, nhờ vậy tâm mới Định, mới yên lặng; tâm có Định, yên lặng tham sân, phiền não, Tuệ mới phát sanh được.

Tuyến tính Chánh Kiến, Chánh Tư Duy... vì do đây là Đạo Đế. Hành giả tu tập Đạo Đế chỉ có hiệu quả khi đã thấy Khổ (Khổ Đế) và nguyên nhân Khổ (Tập Đế). Do đã có trí tuệ nên chỉ cần Chánh Kiến dẫn dắt là 7 chi phần còn lại phải đi theo.

Vòng tròn cũng không sai, là vì để dành cho hành giả đã tu tập minh sát (vipassanā) lâu năm, đã thuần thục, đối với họ, Bát Chánh Đạo nằm nơi sát-na tâm! Chỉ cần một điểm, một đối tượng từ lục trần giao tiếp với lục căn, tức khắc họ có ngay Niệm và Tỉnh Giác, nghĩa là đầy đủ Bát Chánh Đạo vậy. Và khi ấy, chẳng biết chi nào trước, chi nào sau! Vả, nói chi này trước, chi kia sau trong trường hợp nầy, là chỉ để nói mà chơi, thuộc hý luận!

Một hạt bui rơi vào mắt kẻ phàm phu, cả thảy thân tâm đều báo động bất an vì ngay sát-na ấy, họ không có Bát Chánh Đạo!

Một hạt bụi rơi vào mắt bậc trí tuệ, cả thảy thân tâm đều lặng lẽ, bình yên vì ngay sát-na ấy, họ có Bát Chánh Đạo!

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
THANK YOU
22-07-2020, 09:12 PM (Được chỉnh sửa: 22-07-2020 09:13 PM bởi dieuquang.)
Bài viết: #275
RE: NEW TOPIC'S DQ
20 ĐIỀU HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT

Đạo Phật ngày nay có nơi, có lúc suy vi, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực – tức là giáo pháp cội rễ – mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái.

Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chân chính, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng dân gian nữa… Rất nhiều, không thể kể xiết.

Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Thēravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:

1. Tôn giáo: Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo, vì thế giới quan đạo Phật không có một Đấng tạo hóa tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.

2. Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.

3. Triết học: Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.

4. Triết luận: Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chân, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.

5. Từ thiện xã hội: Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng Phật giáo nguyên thủy không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như tỷ phú doanh nhân người Mỹ Bill Gates của đạo Công giáo.

Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, một chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật!

6. Cực lạc, cực hạnh phúc: Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian – chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.

7. Tám vạn bốn ngàn pháp môn: Đạo Phật có nói đến tám vạn bốn ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến tám vạn bốn ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn – cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có tám vạn bốn ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được!

Ai là người có thể đếm đủ tám vạn, bốn ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, tám vạn bốn ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ thời cổ. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu…

8. Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu: Những hình thức này không phải của đạo Phật.

Trong kinh tụng Pāḷi có đoạn: “Sunakkhatam sumangalam supabhātam suhutthitam, sukhno ca suyittam brahmacārisu. Padakkhinam kāyakammam vācākammam padakkhinampadakkhinam manokammam panidhī te padakkhinā…”

Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt… Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu ích).

9. Định mệnh: Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui – chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà La Môn giáo.

10. Siêu độ, siêu thoát: Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng Kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Thēravāda còn duy trì.

Có thể có hai trường hợp:

– Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm… để “thần thức người chết” hướng về điều lành… để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.

– Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ có thể đã tái sinh vào cõi khác rồi. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.

Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”.

Chư Thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước, gia hộ và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ có uy lực ban phước lành nhưng đều phải nằm trong nhân quả và không thể thay đổi vận mệnh cho ai cả.

11. Huyền bí, bí mật: Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là: “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!

12. Tâm linh: Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đọa văn hoá… mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāḷi hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!

13. Niết bàn: Nhiều người tưởng lầm Niết bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết bàn kiểu ấy, thuật ngữ Thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới có bài học giác ngộ được.

14. Bỏ khổ, tìm lạc: Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc (vui). Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!

15. Tu để được cái gì: Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại kinh Vô Ngã Tướng.

16. Tu là sửa: Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều không đúng không sai. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy Trí Tuệ ! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng chệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.

17. Vía: Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh – phần tâm, sắc – phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền.

Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!

18. Bồ tát: Bồ tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sinh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sinh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sinh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sinh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sinh có trí tuệ với nguyện lực Chính Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sinh có trí tuệ trên – không có loại chúng sinh có trí tuệ nào khác.

19. Phật: Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chính Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chính Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 Ba la mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chính Đẳng Giác. Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài ba loại Giác ngộ trên.

20. Thể nhập: Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cái ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chính niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chính niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chính niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc hiện tiền ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sinh khởi.

Ước nguyện tất cả được sự an lành, sức khỏe và trí tuệ.

Hòa thượng Giới Đức
THANK YOU
09-08-2020, 07:05 AM
Bài viết: #276
RE: NEW TOPIC'S DQ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM CÓ MẤYTÔNG PHÁI
( tài liệu copy)

Hiểu được những tông phái chính của Phật giáo Việt Nam hiện nay, giúp biết rõ nguồn gốc, pháp môn tu tập, để chọn lựa cho mình tông phái thích hợp, nhờ đó sự tu học ngày càng tinh tấn.
Xưa Phật giáo từ Ấn Độ truyền thẳng sang Việt Nam; có thể, một số tông phái cũng được truyền sang Việt Nam nhưng không được truyền bá sâu rộng, dần dần bị thất truyền. Các tông phái Phật giáo Trung Hoa truyền sang Việt Nam, có lẽ cũng gần giống như vậy, riêng về Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông vẫn còn được truyền thừa. Có thể nói, tại Việt Nam có những nét đặc thù, nên có những tông phái phát sinh tại Việt Nam, những tông phái này cả Ấn Độ lẫn Trung Hoa đều không có, hảy lần lượt tìm hiểu từng tông phái chính tại Việt Nam.

Các tông phái chính:

1. Thiền Tông:

Tổ Bồ Đề Đạt Ma là vị Tổ thứ 28 truyền thừa từ đệ nhất Tổ Ca Diếp, từ Ấn Độ sang Trung Hoa hoằng dương chánh pháp, Ngài trở thành đệ nhất Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Nhiều Thiền sư đã sang Việt Nam truyền bá thiền tông, trong số đó có Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đệ tử của đệ tam Tổ Tăng Xán sang Việt Nam năm 520, thành lập phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đệ tử của đệ cửu Tổ Bá Trượng Hoài Hải là Vô Ngôn Thông sang Việt Nam năm 820, thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông, đệ tử của thiền sư Tuyết Đậu Minh Giám (980-1052) thuộc phái Văn Môn, là ngài Thảo Đường bị bắt làm tù binh khi vua Lý Thánh Tôn chinh phạt Chiêm đem về Thăng Long năm 1069, sau đó phát hiện ngài là thiền sư liền được thả ra, ngài đã thành lập phái Thiền Thảo Đường và vua đã phong ngài làm Thảo Đường Quốc Sư. Các phái thiền trên đều thất truyền.
Hậu bán thế kỷ thứ 17, có ngài Nguyên Thiều thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 33, từ Trung Hoa sang Đồng Nai rồi lần ra Bình Định, Huế truyền bá Thiền Tông. Tiền bán thế kỷ thứ 18, có ngài Liễu Quán Thiệt Diệu đệ tử của ngài Tử Dung Minh Hoằng cũng thuộc dòng Lâm Tế truyền thừa do nguồn gốc của hai vị Thiền Sư này, có hai bài kệ truyền thừa, theo đó có thể biết được vị nào thuộc đời thứ mấy của dòng Lâm Tế.
Ở nước ngoài, có Thiền sư Nhất Hạnh rất nổi tiếng không những trong cộng-đồng người Việt ở hải ngoại mà cả ở người ngoại quốc nữa, thiền sư Nhất Hạnh có du học ở Mỹ, vào thập niên 60 thiền sư lập dòng tu "Tiếp Hiện". Ngài là giám đốc Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, thuộc viện Đại Học Vạn Hạnh, về địa hạt văn học nghệ thuật Ngài còn được biết như một nhà văn lớn, những hoạt động chống chiến tranh của Thiền sư và cho một nền hòa bình ở Việt Nam đã được nhà lãnh tụ da đen của Mỹ, Martin Luther king, Jr. đề nghị giải Nobel về Hoà Bình, thiền của ngài thuộc Như Lai Thiền.
Ở trong nước có Thiền sư Thanh Từ, trước ngài ở trong đoàn Như Lai sứ giả của Giáo Hội tăng già Nam Việt, cùng với ngài Huyền Vi đi thuyết pháp khắp lục tỉnh. Sau này Thiền sư Thanh Từ chuyên giảng dạy về thiền. Ngài lập ra những tu viện Chơn Không, Thường Chiếu, Linh Chiếu... Thiền của Ngài có khuynh hướng Tổ sư Thiền. Cả hai vị Thiền sư Nhất Hạnh và Thanh Từ, thập niên 50 và 60 đều có ở chùa Ấn Quang, và có am thất ở vùng Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

2. Tịnh Độ Tông:

Là một tông phái lấy pháp môn niệm danh hiệu Phật A Di Đà, để cầu được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà là Giáo Chủ, tông này lấy Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, và Tiểu Bản A Di Đà làm căn bản.
Ngài Tuệ Viễn (334-416) là đệ nhất Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa, tại Lư Sơn ngài dựng chùa Đông Lâm và trụ trì ròng rã 30 năm không hề xuống núi, nơi đây ngài lập ra hội Niệm Phật gọi là Bạch Liên Xã, có 123 người, trong đó có 18 vị gọi là "Đông Lâm Thập Bát Hiền".
Những vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa lần lượt được tôn vị như sau: 1.Tuệ Viễn, 2. Thiện Đạo, 3. Thừa Viễn, 4. Phát Chiếu, 5. Thiếu Khương, 6. Diên Thọ, 7. Tỉnh Thường, 8. Châu Hoằng, 9. Ngẩu Ích, 10. Hành Sách, 11. Tỉnh Am, 12. Triệt Ngộ, 13. Ấn Quang.
Ở miền Nam, có cư sĩ Minh Trí thành lập "Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam", tổ đình đặt tại Minh Hưng Tự số 101 đường Lý Chiêu Hoàng, quận 6, thành phố Sài gòn, xây cất năm 1934. Hội này chọn phương pháp Phước Huệ song tu lấy pháp môn niệm Phật làm căn bản, mỗi chùa thuộc hội đều có một phòng thuốc Nam để hốt thuốc chữa bệnh miển phí cho đồng bào. Ngài Minh Trí được tôn xưng là Giáo chủ Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam.
Ông Đoàn Trung Còn, một dịch giả Phật học nổi tiếng trong nhiều thập kỷ qua. Năm 1955, chư Hòa Thượng Chơn Mỹ trụ trì chùa Giác Hải Phú Lâm Chợ Lớn, Hòa Thượng Chơn Minh, trụ trì chùa Giác Chơn, Chợ Lớn cùng ông Lý Trung Hiếu, Đốc công, Sở Công Chánh Sài Gòn đã thành lập Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam, trụ sở đặt tại chùa Giác Hải, sau dời về Liên Tông Tự, 145 đường Đề Thám, quận I, thành phố Sài Gòn. Vào thập niên 60, ông Đoàn Trung Còn xuất gia, trở thành tu sĩ, pháp danh Hồng Tại, ông giữ chức vụ Trị sự trưởng của Giáo hội này, ông đã viên tịch năm 1988.
Các chùa thuộc hệ phái Non Bồng của Hòa thượng Thích Thiện Phước, ở tổ đình Linh Sơn Cổ Tự trên núi Dinh, gần Thị Trấn Bà Rịa, cũng thuộc giáo hội Tịnh Độ Tông này, Hòa thượng Thiện Phước đã viên tịch năm 1986, nay do ni sư Huệ Giác thống lãnh Tăng, Ni của gần 50 ngôi chùa khắp Miền Nam và Nam Trung Phần. Tông môn này thực hành rốt ráo theo pháp môn Niệm Phật. Ngoài những thời công phu, chấp tác, vào 11 giờ đêm đều dành riêng một thời niệm Phật A Di Đà. Riêng Nhất Nguyên Bửu Tự ở Xã Vĩnh Phú (Lái Thiêu), huyện Thuận An, tỉnh Sông Bé, hàng năm đều có tổ chức Khóa Bá Nhật Niệm Phật (100 ngày đêm liên tục niệm Phật). Từ năm 1964 bắt đầu tổ chức khóa Niệm Phật này, khai kinh vào đêm mồng 7 tháng 8 và hoàn kinh vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng 11, nhằm ngày vía Đức A Di Đà Phật. Bất cứ ai cũng có thể đến đây niệm Phật 1 thời (2 giờ), một buổi, một ngày, nhiều ngày hay cả khóa, việc ăn ở do chùa cung cấp, phật tử chỉ có chuyên dùng thì giờ niệm Phật mà thôi. Mỗi năm phật tử Biên Hòa, Bình Dương, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Vĩnh Long, Long Xuyên... đều về đây tham gia khóa Niệm Phật, người ta thường nói "cửa chùa rộng mở", đặc biệt chùa này không có cánh cửa để đóng hay mở.
Quan Âm tu viện, ở phường Bửu Hòa (gần Cầu Hang, Biên Hòa), thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, do Ni sư Huệ Giác làm viện chủ, Phật tử đi hành hương, viếng chùa, nhằm giờ thọ trai, đều được dọn một phần ăn như phần thọ trai của chư Tăng Ni ở chùa, những năm khó khăn về thực phẩm, chùa vẫn giữ được nề nếp nầy, mặc dù Tăng Ni sáng cháo, trưa cơm, chiều cháo.
Tịnh Độ Tông ngày nay có lẽ hệ phái Non Bồng, là một hệ phái lớn nhất có nhiều chùa từ miền Tây, miền Đông và miền Trung Việt Nam.

3. Mật Tông

Là một tông phái đặc biệt, do ba vị đại học giả của Mật giáo là Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, và Bất Không đem Mật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa gọi là Mật Tông, y vào giáo lý bí mật của Kinh Đại Nhật, Kinh Kim Cương Đính gọi là Mật Tông hay Chơn Ngôn Tông.
Mật Tông có "tam mật", nêu về ý thú thực tiễn tu hành, khi tu tới Tam Mật Tương Ứng với nhau, tức là "Tức thân thành Phật", nghĩa là tay thì kiết ấn "Thân mật", miệng đọc chú "Khẩu mật", ý trụ Tam ma địa "Ý mật".
Trong Nam, có Hòa thượng Nhẫn Tế thế danh Nguyễn Văn Tạo sanh năm 1889 tại thôn An Thánh (nay là thị trấn Lái Thiêu), tỉnh Bình Dương, hâm mộ đạo Phật từ nhỏ, năm 1904, được 16 tuổi ngài đến chùa Thiên Tôn trong vùng, quy y với Hòa thượng Ấn Thành - Từ Thiện, pháp danh Chơn Phổ. Sau khi học hành xong, Ngài đi làm việc nhưng vì có bệnh nên xin nghỉ dưỡng bệnh.
Năm 1926, chùa Thiên Thai ở Bà Rịa có giới đàn, Ngài đến xin thọ giới do Đầu đàn Hòa thượng Huệ Đăng truyền giới, Ngài được ban pháp danh Trừng Liễn, pháp hiệu Minh Tịnh thuộc đời thứ 42 Thiên Thai Thiền Giáo Tông.
Năm 1933, chùa Thiên Tôn mở Đại giới đàn, Ngài xin thọ giới do Đầu dàn Hòa Thượng Ngộ Định - Từ phong truyền giới, Ngài được ban pháp hiệu Nhẫn Tế, đệ tử nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh chùa Thiên Tôn.
Ngày 17-4-1935, Ngài lên tàu đi sang Ấn độ, chiêm bái và học Phật, có sang Népal nhận được Xá lợi Phật, rồi sang Tây Tạng ngày 28-6-1936, được yết kiến Nhiếp chánh Quốc vương Tây Tạng, được Lạt ma Nhiếp chánh nhận là tu sĩ Tây Tạng, ban cho pháp danh Thubten Osall Lama (Huệ Phát), ngài đắc pháp Mật Tông Tây Tạng. Đến ngày 29-10-1936, Ngày rời khỏi Tây Tạng, trở lại Ấn độ học hỏi thêm một thời gian rồi mới trở về xứ. Ngài đặt chân lại am thất cũ của mình tại Bình Dương ngày 30-6-1937.
Tại Phú Cường có ngôi chùa Bửu Hương, Phật tử tại đây quy ngưỡng nên dâng cúng chùa cho Ngài, Ngài đổi tên là Tây Tạng tự, từ đó Ngài tu và truyền bá Mật tông, nhưng vì Phật giáo thời đó, nên Mật Tông của ngài Nhẫn Tế không lan rộng, không lập nên Giáo Hội.
Hòa thượng Nhẫn Tế viên tịch ngày 17-5-1951, thọ 63 tuổi đời, đắc 25 hạ lạp, là một Lama Việt Nam đầu tiên, được chính Nhiếp chánh quốc vương Tây Tạng ấn chứng.
Ở Huế có Mật tông lưu truyền, thập niên 60, Hội Phật Học Nam Việt có thỉnh chư Tăng từ Huế vào chùa Xá Lợi làm lễ Trai Đàn Cứu Tế, những vị Tăng nầy đã hành lễ theo nghi thức Mật Tông Trung Hoa.
Thích Viên Đức có dịch một bộ Mật Tông gồm những sách: Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm yếu, Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, Kinh Chuẩn Đề Đà La Ni Hội Thích (hay Kinh Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết), Kinh Mạt Pháp Nhất Tự Đà La Ni.

4. Phật giáo Nguyên Thủy:

Phái này do Hòa thượng Hộ Tông lập ra, ngài tục danh là Lê văn Giảng, sanh năm 1893 tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, ngài có bằng Bác sĩ thú y và lập nghiệp tại Campuchea. Năm 1914, được 21 tuổi, ngài lập gia đình, nhưng đến năm 1925, được 32 tuổi, ngài phát tâm tìm đạo. Sau khi tu tập qua nhiều pháp môn, đến năm 1936, ngài quyết chí thực hành Lục Độ Ba La Mật, có thì giờ thì dành cho thiền định và có của cải là bố thí. Ngài bỏ tiền ra xây trường học để dạy tiếng Pali, cất một ngôi chùa ở Campuchea để cho Việt kiều có nơi thọ Bát quán trai.
Đến năm 1939, theo lời thỉnh cầu của cư sĩ kỹ sư Nguyễn văn Hiếu, Ngài Hộ Tông về Tịnh Xá ở Gò Dưa, Thủ Đức mở đạo và năm 1949 ngài Hộ Tông cùng ông Nguyẽn văn Hiếu đứng ra xây chùa Kỳ Viên Tự, 610 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, thành phố Saigon. Năm 1950 Kỳ Viên Tự hoàn thành như ngày nay. Chùa có tên là Jetavana Vihara Kỳ Viên Tự, sân trước bên phải chùa, ngay góc đường Nguyễn Đình Chiểu, Bàn Cờ có trồng cây Sa La, lấy gốc từ Ấn Độ (Sa La Song Thọ, nơi đức Thế Tôn nhập diệt), hoa trổ quanh năm, màu phơn phớt tím như hoa sen nhỏ, trông rất đẹp, tỏa hương thơm. Chánh điện ở trên 2 tầng tượng Phật có tôn trí Xá Lợi Phật do Đại Đức Narada tặng.
Ông Nguyễn văn Hiếu sanh năm 1896 tại làng Tân An, tổng Định Bảo, hạt Cần Thơ, ông đậu bằng Cao Đẳng kỹ thuật Công Chánh của trường Cao Đẳng Công Chánh Hà Nội năm 1919, ông được bổ đi làm việc ở Campuchea. Năm 1925 đổi về làm ở sở Hỏa Xa Saigon. Năm 1930, nhân đọc cuốn La Sagesse de Bouddha (Tuệ Giác của Phật), ông phát tâm đem Phật giáo Nguyên Thủy vào Việt Nam. Khởi đầu, ông cất "cốc" ở Vườn Xoài, khu Trương Minh Giảng để tập thiền, có số thân hữu tham gia đông, ông cất một chòi lá lớn ở Tân Sơn Nhất, để huynh đệ có nơi tu Thiền và luận đạo. Năm 1938, ông dở chòi lá về Gò Dưa dựng thành Tịnh Xá. Năm 1939, ông thỉnh đại đức Hộ Tông, Thiện Luật, Huệ Nghiêm và một vị sư Campuchea về tịnh xá mở đạo, đồng thời ông thỉnh đại đức Vua Sãi Chuôn Nath và 30 vị sãi Campuchea đến làm lễ Sima (Kiết giới) đặt tên chùa là Batana Hamayarama (Bửu Quang Tự) Ông thật là một vị Hộ Pháp, nhờ đó giáo phái Nguyên Thủy Việt Nam được thành lập và có nguồn gốc từ Campuchea truyền sang.
Phật giáo Nguyên Thủy kinh điển theo Pali tạng, ăn mỗi ngày một bữa ăn vào giờ Ngọ (12 giờ trưa) cũng tụng kinh và ngồi thiền.
Năm 1958 Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy được thành lập, ngài Hộ Tông giữ chức Tăng Thống đầu tiên, đến năm 1971, ngài đã 80 tuổi lại đãm nhiệm chức vụ này thêm 2 nhiệm kỳ đến năm 1974. Gíáo Hội Phật giáo Nguyên Thủy và Hội Phật giáo Nguyên Thủy đều có tham gia thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất vào ngày 20 tháng 11 năm 1963 tại chùa Xá Lợi Saigon.

5. Giáo Phái Khất Sĩ:

Giáo phái này do Tổ Sư Minh Đăng Quang thành lập. Tổ sư thế danh là Nguyễn Thành Đạt tự Lý Hườn, sanh ngày 26 tháng 9 năm Quý Hợi (nhằm 4-11-1923) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Con ông Nguyẽn Toàn Hiếu và bà Phạm Thị Ngà, bà thọ thai 12 tháng mới sanh ra ngài, 9 tháng sau bà mất.
Năm 1937, được 14 tuổi, Ngài xin phép phụ thân lên Phnom Pênh tầm sư học đạo. Ngài tu học ở đây đến năm 1941, được 4 năm rồi trở về nhà lập gia đình để lo tròn chữ hiếu, lúc ấy Ngài được 18 tuổi, năm sau vợ con đều mất vì bệnh. Năm sau 1943, được 20 tuổi, Ngài quyết chí đi tu, vân du vùng Thất Sơn tầm sư học đạo. Mùa Xuân năm 1944, Ngài ở Hà Tiên tham thiền, thâm nhập lý pháp. Đến rằm tháng Bảy năm này chủ chùa Linh Bửu Tự làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho, thỉnh ngài về trụ trì, Ngài khai đạo từ đó.
Năm 1946, Ngài bắt đầu dẫn đoàn Du Tăng đi hành đạo ở Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Thủ Thừa, Bến Lức, Phú Lâm, Chợ Lớn, Bà Chiểu, và các tỉnh miền Đông. Năm 1953, một tịnh xá đầu tiên được xây dựng tại Đồng Ông Cộ (Bà Chiểu, tỉnh Gia Định). Đến mồng một tháng hai năm Giáp Ngọ (5-3-1954) từ Vĩnh Long du hóa sang Cần Thơ, đến Bình Minh, địa phận của tướng Trần văn Soái. Ngài bị bắt cùng với một chú tiểu, chú tiểu về sau được thả ra, còn Tổ sư mất tích từ đó.
Tổ sư Minh Đăng Quang đã dung hợp Nam và Bắc Tông, định ra hạnh Sa Môn Khất Sĩ:
Nhất biểu thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Dục cùng sanh tử thọ,
Khuất hóa độ xuân thu.
Có nghĩa:
Một bầu cơm ngàn nhà,
Riêng mình vạn dậm xa.
Muốn thoát vòng sống chết,
Xin hóa tháng ngày qua.
Theo tôn chỉ của giáo phái này, người Du Tăng khất sĩ: Với bộ áo vàng choàng một bên, đầu đội trời, chân đạp đất, trong người không giữ tiền bạc, tay bưng bỉnh bát, nhà sư đi khắp nẽo đường đất nước hành đạo, hóa duyên.
Năm 1965, bên Tăng chúng thành lập năm đoàn du tăng so Trưởng Lão Giác Tánh và các Thượng tọa Giác Chánh, Giác An, Giác Nhơn, Giác Lý làm trưởng đoàn. Bên Ni chúng cũng có 5 đoàn do quý Ni Cô Huỳnh Liên, Ngân Liên, Trí Liên, Diệu Liên, Tạng Liên làm trưởng đoàn. Các đoàn đã du hóa khắp Nam phần và Miền duyên hải Trung phần. Năm 1966, Giáo Hội tăng Già Khất Sĩ Việt Nam được thành lập, có pháp viện Minh Đăng Quang ở ngã ba Cát Lái, xa lộ Biên Hòa. Hội đồng lãnh đạo trung ương gồm Viện Chỉ Đạo do Thượng tọa Giác Nhiên làm Tổng Trị Sự. Gần đây các giáo đoàn không còn đi khất thực nữa.
Giáo phái khất sĩ mặc y và du hóa như Nam Tông. Tăng Ni trường chay, kinh điển viết theo lối văn vần. Sau 10 năm hành đạo, tổ sư Minh Đăng Quang lưu lại giáo lý gồm có: Bồ Tát Giáo, và bộ sách chân lý. Ngài dạy Tăng chúng: Sống là sống chung, biết là học chung, linh là tu chung.

6. Phật giáo Hòa Hảo:

Tông phái này do Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng, Ngài tên thật là Huỳnh Phú Sổ, sinh năm Kỷ Mùi 1919, tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, Tỉnh Châu Đốc. Thân sinh ngài là ông Huỳnh Công Bộ. Thuở thiếu thời, ngài học đến bậc tiểu học (ngày trước) ở trường tiểu học Tân Châu, trước Ngài từng vân du vùng Thất Sơn, đến ngày 19-5- năm Kỷ Mão (nhằm 5-7-1939), Huỳnh Phú Sổ khai đạo tại làng Hòa Hảo, thuở đó tín đồ tôn xưng là Thầy hay Đức Thầy, Ngài có biệt hiệu là Hồng Vân Cư Sĩ và Hòa Hảo. Sấm giảng Thi Văn toàn bộ của ngài dày 500 trang.
Phật giáo Hòa Hảo có truyền thống của Bửu Sơn Kỳ Hương, truyền bá phật giáo trong giới nông dân, tu tại gia, có tôn chỉ "Học Phật, Tu Nhân", thực hành tứ ân: 1. Ân Tổ tiên cha mẹ; 2. Ân Đất Nước; 3. Ân Tam Bảo; 4. Ân Đồng Bào Nhân loại. Triệt để bài trừ mê tính như đốt vàng mã, thầy bùa, thầy pháp...không cất chùa mới, chỉ cất Độc Giảng đường để ngày rằm, mồng một, tín đồ đọc Sấm giảng, đó là những lời răn dạy, khuyến tu của Ngài theo thể văn vần.
Tín đồ PGHH cũng quy y tam bảo, giữ ngũ giới, ăn tứ trai, thập trai và trường trai, đàn ông để búi tóc và râu, trong nhà có một bàn thờ Cửu Huyền thất tổ, bên trên là tấm trần điều, tượng trưng cho tịnh độ, ngoài sân có bàn thờ thông thiên phải lạy bốn phương, bài nguyện, Đức Thầy đặt theo thể văn vần. Cúng lạy ở bàn thờ trong nhà thì khởi đầu cầm hương xá 3 xá, quỳ xuống chấp tay ngay trán nguyện:
Cúi kính dưng hương trước Cửu Huyền,
Cầu trẻn Thất Tổ chứng lòng thiềng.
Con nay tỉnh ngộ quy y Phật,
Chí dốc tu hành đạo phước duyên.
Cắm hương rồi đứng ngay thẳng, chắp tay vào ngực đọc tiếp:
Cúi đầu lạy tạ Tổ Tông,
Báo ơn sanh dưỡng dày công nhọc nhằn.
Rày con xin giữ đạo hằng,
Tu cầu Tông Tổ siêu thăng Phật đài.
Nguyện làm cho đẹp mặt mày,
Thoát nơi khổ hải Liên đài được lẻn.
Mong nhờ Đức Cả bề trên,
Độ con yên ổn vững bền cội tu. (Lạy 4 lạy)

Kết luận:
Hiểu được những tông phái chính của Phật giáo Việt Nam hiện nay, giúp chúng ta biết rõ nguồn gốc, pháp môn tu tập, để chọn lựa cho mình tông phái thích hợp, nhờ đó sự tu học ngày càng tinh tấn.

Sách tham khảo:
- THÍCH THANH KIỀM Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc, Vạn Hạnh ,Saigon, 1964.
- Linh Sơn Phật học nghiên cứu Hội, Đặc san, Phật Học Tùng Thơ, Saigon, 1958.
- The Quest, The Theosophical Publishing house, Wheaton, IL, Winter 1991.
- VIETNAM NEWS, Nguyệt san số 7, Việt Nam Publishing Inc. Atlanta, GA, 1994.
- Đức Huỳnh giáo chủ, Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ, VPPGHHHN, Ấn tống lần 2, năm 1984.
THANK YOU
03-09-2020, 07:07 AM
Bài viết: #277
RE: NEW TOPIC'S DQ
[Hình: attachment.php?aid=14357]


File đính kèm Thumbnail(s)
   
THANK YOU
03-09-2020, 07:11 AM
Bài viết: #278
RE: NEW TOPIC'S DQ
[Hình: attachment.php?aid=14358]


File đính kèm Thumbnail(s)
   
THANK YOU
[-] dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này:
baothai (10-11-2020 12:10 AM)
10-11-2020, 12:11 AM
Bài viết: #279
RE: NEW TOPIC'S DQ
Wow, hay D. Hai ui


CÔNG CHA NHƯ NÚI THÁI SƠN, NGHĨA MẸ NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA

.........LOVE YOU ALL..............
THANK YOU
28-01-2021, 06:56 PM
Bài viết: #280
RE: NEW TOPIC'S DQ
NĂM TRÂU XIN COPY BÀI * TRÂU TRONG NHÀ PHẬT * MỜI XEM QUA

Phật dạy chăn trâu

Kinh Pháp cú, bài kệ 135, phẩm Đao trượng, nói: “Như người chăn trâu cầm gậy lùa đàn trâu ra đồng cỏ. Cũng vậy, tuổi già và sự chết xua đuổi mạng sống ra đi”.

Không hung hăng tàn bạo, bản tánh vốn thuần hậu dễ sai khiến, siêng năng và nhiều nhẫn nại; nhưng lại hay làm bậy do sự si ngốc. Đó là đặc tính của trâu, mà cũng là đặc tính của chúng sinh. Phật không nhất thiết coi chúng sinh như trâu bò. Kinh Phật mà nói đến trâu, là nói đến bản tính si ngốc, vô trí nơi mỗi loài chúng sinh. Hiệu của Phật là Điều ngự sư, nên Ngài là một người chăn, hay một người đánh xe khéo léo, đưa chúng sinh đến thành trì an lạc của giải thoát.

Sự si ngốc của chúng sinh không chỉ có một. Nó si ngốc tùy theo loại, nên cũng có cấp bậc, có mỗi cách điều phục riêng biệt. Từ các hàng phàm phu, cho đến các hàng Thanh văn, Bồ tát và cả đến các thiền sư, ngoại hạng, mỗi hành động và mỗi nỗ lực cho hành động, đều được ví với các cách chăn trâu.

I. Trâu của phàm phu:

Kinh Pháp cú, bài kệ I, phẩm Song yếu, nói:

“Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu ai nói năng hay hành động với tâm bất thiện, khổ não sẽ đi theo như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe”.

Trong bài kệ này, nghiệp được ví như con vật kéo xe, mà nguyên ngữ Pāli là vahato, không nhất thiết phải là trâu. Nhưng cũng có thể nói đó là trâu.

Nghiệp được ví là trâu, vì tất cả nghiệp tạo tác đều được điều động bởi vô minh, cũng như con trâu được điều động kéo xe vì sự si ngốc của nó.

Kinh Pháp cú, bài kệ 135, phẩm Đao trượng, nói: “Như người chăn trâu cầm gậy lùa đàn trâu ra đồng cỏ. Cũng vậy, tuổi già và sự chết xua đuổi mạng sống ra đi.”

Mạng sống hay tuổi thọ của mỗi chúng sinh, được ví như một con trâu, tuổi già là cây gậy, đồng cỏ là sự chết, và thằng chăn là nghiệp lực. Đời sống của chúng sinh bị nghiệp lực xua đuổi đi tới sự chết bằng tuổi già, như con trâu bị thằng chăn xua đuổi ra đồng cỏ bằng cây gậy. Con trâu nhắm tới đồng cỏ, sự sống nhắm tới sự chết. Chúng sinh không tự chủ trong hành động, cũng như trâu không tự chủ trong sở thích của nó.

II. Trâu của Thanh văn:

Tần-bà-ta-la, quốc vương xứ Ma-kiệt-đà, thỉnh Phật và năm trăm đệ tử Phật cúng dường trong ba tháng. Vương dọn sữa tươi cúng Phật và chúng Tỳ kheo tăng, nên cho gọi những người chăn trâu ngày ngày mang sữa tươi đến. Sau ba tháng, quốc vương thương cảm những người này, muốn cho họ đến hầu Phật. Họ đến hầu Phật, sung sướng được chiêm ngưỡng dung nhan của Phật. Nhưng không biết gì để thưa hỏi. Vì họ là những người chăn, nên chỉ biết việc chăn mà thôi. Họ đem việc đó hỏi Phật, chăn thế nào cho có hiệu quả thiết thực. Phật dạy:

Nếu biết giữ mười một điều thì người chăn có thể làm cho bầy trâu mạnh khoẻ và nhiều thêm.

Nhân đó, Phật cũng dạy các thầy Tỳ kheo phải biết mười một pháp, để cho thiện pháp được tăng trưởng.

Đây là mười một điều tâm niệm của người chăn, tương xứng với mười một điều tâm niệm của thầy Tỳ kheo:

-Biết sắc. Biết các sắc của trâu: sắc đen, sắc trắng, sắc tạp.
Tỳ kheo cũng thế. Biết hết thảy sắc pháp đều là tứ đại và tứ đại sở tạo.

-Biết tướng. Biết trâu có tướng tốt hay không có tướng tốt. Do so với các bầy trâu khác mà biết.
Tỳ kheo cũng vậy. Thấy tướng thiện nghiệp thì biết là người trí, thấy tướng ác nghiệp thì biết là người ngu.

-Biết mổ xẻ. Khi trâu bị các trùng độc hút máu, các vết thương lở ra. Biết mổ xẻ thì trừ được các điều có hại.
Tỳ kheo cũng vậy. Thấy cái đó là ác, thì biết là loài trùng độc hút máu thiện căn làm vết thương của tâm lở thêm ra. Biết trừ đi thì được an ổn.

-Biết che vết thương. Hoặc lấy vải, hoặc lấy lá cây, che các vết thương, không để cho ruồi muỗi châm chích.
Tỳ kheo cũng vậy. Niệm pháp chánh quán để che vết thương lục tình, không để cho các trùng độc phiền não tham dục, sân nhuế, ngu si châm chích gây ra vết thương.

-Biết nhóm khói. Nhóm khói là để trừ các loài ruồi muỗi. Trâu nhìn xa thì nhằm chỗ đó mà về nhà.
Tỳ kheo cũng vậy. Đúng như điều được nghe mà thuyết để trừ các loài ruồi muỗi kết sử, lấy ngọn khói chánh pháp để dẫn chúng sinh về trong nhà vô ngã, thật tướng, tánh không.

-Biết đường tốt. Biết con đường đi về của trâu tốt hay xấu.
Tỳ kheo cũng vậy. Biết con đường bát thánh có thể đi đến Niết-bàn, lìa con đường xấu chấp đoạn chấp thường.

-Biết chỗ trâu thích hợp. Biết nơi nào thích hợp cho trâu sinh sôi nảy nở, ít bịnh.
Tỳ kheo cũng vậy. Khi giảng thuyết Phật pháp thì được pháp hỉ thanh tịnh, các thiện căn thêm lên.

-Biết đưa qua sông. Biết chỗ dễ lội xuống, dễ đi qua, không có sóng dữ, không có trùng độc.
Tỳ kheo cũng vậy. Thường đến chỗ của những Tỳ kheo đa văn mà hỏi pháp, tâm sáng hay tối, phiền não nặng hay nhẹ, khiến cho được vào bến tốt, an lành mà được độ thoát.

-Biết an ổn. Biết chỗ ở có hay không có cọp beo, sư tử, ác trùng, độc thú.
Tỳ kheo cũng vậy. Biết bốn niệm xứ là chỗ an ổn, không có ác ma, độc thú, phiền não. Tỳ kheo vào ở chỗ đó sẽ được an ổn, không lo ngại.

-Biết giữ sữa. Trâu mẹ thương yêu trâu nghé nên lén cho sữa. Nếu biết giữ sữa còn lại cho trâu mẹ hoan hỉ, trâu con không bị khát sữa. Như vậy, chủ trâu và người chăn trâu ngày ngày có thêm điều ích lợi.
Tỳ kheo cũng vậy. Bạch y cư sĩ cung cấp các thứ y phục, ẩm thực, nên biết tiết lượng, không để khánh kiệt; đàn việt sẽ hoan hỷ, tín tâm do đó không dứt. Mà người thọ nhận sẽ không bị thiếu hụt.

-Biết nuôi trâu đầu đàn. Con trâu nào lớn nhất, có thể giữ được cả đàn trâu, nên phải giữ gìn không để tiều tụy. Uống thì cho dầu lạc, trang sức thì cho vòng hoa, tiêu biểu thì lấy sừng sắt cọ mài, vuốt ve khen ngợi…
Tỳ kheo cũng thế. Trong chúng tăng có bậc đại nhân có uy đức, hộ trì chánh pháp, hàng phục ngoại đạo, có thể khiến cho tâm chúng được gieo các thiện căn, nên tùy sở nghi mà cung kính cúng dường…

Những người chăn trâu sau khi nghe Phật giảng các cách chăn trâu cặn kẽ như vậy, rất lấy làm thán phục. Họ kinh ngạc, không tưởng được một hoàng tử suốt đời chưa từng chăn trâu, mà lại biết rành rẽ về các cách chăn trâu như vậy. Họ nói với nhau rằng, trong nghề của mình, biết nhiều lắm ba hoặc bốn chuyện. Dù đến bậc thầy chăn trâu cũng chỉ biết năm hay sáu chuyện là cùng. Phật lại biết cả mười một cách, quả Ngài là bậc Nhất thiết trí. Theo họ, Nhất thiết trí, một danh hiệu thường được dùng tôn xưng đức Phật, có nghĩa là cái gì cũng biết, cả đến việc chăn trâu cũng phải biết.

III. Trâu của Bồ tát:

Trước đây, trong quyển tranh chăn trâu, do nhà An Tiêm xuất bản, tôi có cho in các bài văn ngắn của các cao tăng Trung hoa thời xưa, và trích dịch 30 bài thơ, vừa xướng vừa họa, cũng của các cao tăng Trung hoa, về tranh chăn trâu. Nay nhân dịp này, tôi dịch ra đây mười bài thơ khác, trích trong quyển Tịnh độ chứng tâm tập, của Vạn Liên, đời Thanh, trước thuật.

Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Từ khi tìm trâu để chăn cho đến khi việc chăn thành tựu, trải qua mười giai đoạn:

1) Tìm trâu:
Giá điều tuấn lĩnh thảo ly ly
Hoa lạc lâm gian bát nhãn mi
Đáo thử dĩ tương trân thế cách
Na biên ưng bả tục tình di
Trùng trùng hàng thọ hàm thù thắng
Yết yết dư hà đĩnh tú ti
Mịch biến khê sơn vô tích thú
Hồn nhiên đại khởi nhất đoàn nghi.

Núi cao cây cỏ mịt mùng
Vén mày tìm lối hoa rừng mà qua
Chợ đời một cõi cách xa
Tình đời thôi hãy gác ra cõi ngoài
Chập chùng biết mấy hàng cây
Ráng chiều vời vợi vẻ ngày lên cao
Nầy non kìa suối tìm đâu
Lòng ôm một nỗi mấy bầu hòai nghi.

2) Thấy dấu:
Thanh phong xuy phá bích vân yên
Trực thượng cao phong tuyệt đảnh biên
Khê lộ điều điều lai nhãn để
Đề ngân ẩn ẩn đáo ngân tiền
Tương phùng tợ suyển tùng sao nguyệt
Tạc hiến như khuy tỉnh lý thiên
Truy hướng Qui sơn cừ diện mục
Giá hồi y cựu bất năng xuyên.

Gió lành thổi dạt mây mờ
Trèo lên tuyệt đỉnh trơ vô tuyệt vời
Liếc chừng con suối chảy xuôi
Dấu chân thấp thoáng đây rồi phải chăng
Tuồng chi thông réo vờn trăng
Vẻ chi đáy giếng mà trong bóng trời
Non Qui chắc có mặt mầy
Rồi ra chẳng biết đường dây mối nào.

3) Thấy trâu:
Ngưu nhi nhất kiến tự vong ưu
Đầu giốc tranh vanh tượng ngoại du
Bất hưởng cốc trung hô bất trụ
Vô âm dương xứ hoán vô hưu
Chân hình lộ địa tiền sinh ngộ
Thật trí huy thiên xuất thế lưu
Không bả tị thằng nan hạ thủ
Ngưng mâu trực thị cánh thâm u.

Thấy trâu lọ phải ưu sầu
Sừng chông chênh chếch ra màu xa khơi
Kêu vang hốc núi dội lời
Mà đâu thanh khí cho hòai công lao
Duyên đời rồi sẽ gặp nhau
Trí lay trời rộng cõi nào sánh ngang
Làm sao xỏ mũi tay thừng
Tròn xoe con mắt trông chừng xa xa

4) Được trâu:
Đốn triệt thiên nhiên thân ngoại thân
Dã hồ tinh mị cảm đồng luân
Ngang đầu cố thị hòa thân chuyển
Ổn bộ du hành thoát tục trần
Đạp khước hoá thành tam bách chủng
Canh lai pháp địa thập phấn xuân
Đoan đoan tị khổng thâm thâm quán
Bảo thọ âm trung hảo dưỡng thần.

Rõ ràng vóc dạng rồi nha !
Chồn kia cáo nọ không là giống chi
Ngẩn đầu quay lại bước đi
Thong dong dạo bước mơ gì trần ai
Ba trăm quán trọ qua ngay
Về nơi đất pháp công cày nên xuân
Sít sao mũi buộc dây thừng
Cây sao bóng rủ kề lưng giấc hòe

5) Chăn trâu:
Địa khoát thiên cao nhiệm mục đồng
Khê nam khê bắc dữ khê đông
Nhân ca nhất khúc tri không hữu
Tinh khán thiên kinh dẫn dị đồng
Hàm trạch phong gia mao ốc cổ
Triệu châu chỉ thú mính hoa dung
Quát kim huấn luyện thù tiêu tức
Biến lịch u lâm khí tượng hùng.

Mục đồng đất chở trời che
Này nam, này bắc, này khe mấy dòng
Nghêu ngao mấy khúc Có Không
Đọc kinh mấy quyển Dị Đồng dửng dưng
Nhà tranh mái cũ quen chừng
Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn
Dạy trâu nào phải nhọc nhằn
Quyền uy đậy cả một vùng cỏ cây

6) Cưỡi trâu:
Nhị thập dư niên trụ thử san
Xuất san hung thứ thủy an nhàn
Cao phao thoa liệp tùy phong vũ
Hảo điệu tiều ca dật hứng ban
Hoa vũ phi lai do phá xuyết
Vân lâm qui khứ thiểu đồng ban
Bát khai phách tử thành tiêu sái
Ổn tọa bồ đoàn triển tiếu nhan.

Hai mươi năm lẻ non này
Mới yên tất dạ từ đây giã từ
Tung nón lá, gió đong đưa
Cao lời thấp giọng chi thua lão tiều
Mưa hoa cánh áo dập diều
Rừng mâu trên đó ngược chiều dưới ni
Dang tay phách nhịp đi đi
Ngồi chơi nệm cỏ mặt hi cười cười

7) Quên trâu:
Đắc thủ công huân diệc thị vô
Vong tình tuyệt lự nhất thân cô
Du du độc toạ văn đề điểu
Tịch tịch không hòai quyển trú đồ
Tự tích dĩ phùng chân tục thú
Nhi kim bất cổ súc thì đồ
Hồn dung cư chỉ thùy vi chủ
Tất cánh tiêu dao một thử mô.

Xong rồi công khó thành chơi
Quên tình quên nghĩa cho người lẻ loi
Ngồi nghe chim hót chơi vơi
Tranh chiều rủ xuống đất trời lạnh tăm
Ngày xưa Chân , Tục xăm xăm
Bây giờ một dứt mấy tầm cũng thôi
Nếp nhà bỏ đó mặc ai
Tiêu dao một chuyến cho đầy ước mong.

8) Vắng hết:
Tịch diệt trân hòai khởi chánh tràng
Đốn dung minh ám thú phi thường
An nhiên thoát sái thành du viễn
Trực hạ trừng ngưng tuyệt ẩn tàng
Ngọc lậu điêu tàn thiên địa hiểu
Kim thương ninh tĩnh quốc dân khang
Ưu du vẫn khế đoan hô xuất
Nhất vị tiêu dung giác tánh vong.

Từ nay cõi Đạo nức lòng
Lẽ thường sáng tối ôm tròn, lạ thay !
Nhởn nhơ tách bước cõi ngoài
Màu trong tiếng lặng tuyệt vời chìm xa
Canh tàn trời đất sáng ra
Quăng thương liệng giáo quốc gia thái bình
Rong chơi theo tiếng tâm tình
Vẻ chi giác tánh mà mình đeo mang

9) Về nguồn:
Thượng hạ giao huy thấu triệt thanh
Qui phàm phong chánh lải chu hành
Nguyên tuyên cổn cổn tri hà hứa
Trí hải thâm thâm thùy cảm bình
Đổng triệt thiên tâm thuyên biểu lý
Đoan tư chí thú ức tung hòanh
Đoàn loan bản trí nan đồng thưởng
Chiếu khí xung hòa vạn hủy sanh.

Một màu trên dưới trong xanh
Cánh buồm thuận gió con thuyền lênh đênh
Suối nguồn như thác đổ ghềnh
Sâu xa biển Trí ai bình cho xuôi
Tỏ bày cao vút lòng trời
Dọc ngang chi đó thú này trong tay
Tròn xoe gốc cội khôn hay
Hơi xông ngui ngút phủ đầy cỏ hoa.

10) Vào chợ:
Đại triển gia phong độc lộ ki
Thanh sơn khước chỉ dã vân phi
Giang hà thủy mãn triền thành khoát
Tỉnh lý xuân thâm nguyệt sắc vi
Tọa đối lục dương tiêu tức hảo
Hành khan bạch cổ tự tri qui
Sư nhi tận sổ phiên cân đẩu
Bất xuất lão tăng kim lũy ...(?)

Rõ ràng một bóng thói nhà
Núi xanh chỉ thấy la đà từng mây
Phố thị rộng, nước sông đầy
Màu trăng mờ nhạt xuân dày ruộng nương
Ngồi xem vẻ biếc cành dương
Con trâu trăng trắng thuộc đường vãng lai
Mấy lần sư tử ra oai
Làm sao hơn nổi áo thầy mà mong.

IV. Trâu của thiền sư:

Thiền sư không biết tụng kinh, chỉ biết gánh nước, đốn củi, vo gạo nấu cơm. Chăn trâu có nhiều phép tắc, sư làm sao nổi? Việc của mình thiền sư không thông, nhưng lại thông việc của người khác. Bây giờ thử coi các thiền sư có trâu hay không, và có, thì chăn bằng cách nào ?

1) Có thầy tăng hỏi Thiền sư Nam Tuyền: “Một trăm năm nữa, Hòa thượng đi về đâu?” Sư đáp: “Đi làm một con trâu”.

Sư Phần Dương Thượng Chiêu làm bài tụng:

Loại trung nan biện yếu phân minh
Đới giốc phi mao tốt vị tinh
Hàm thủ thảo lai phương định động
Đầu đầu vật vật tự chân linh
Phải biết cùng loài thì khó biết
Mang lông đội sừng giống nhau hết
Ngậm cỏ đưa về rồi mới hay
Trông trước trông sau ra giả thiệt.

Ý muốn nói, Hòa thượng Nam Tuyền cũng một loại với trâu. Trâu thiệt hay trâu giả, mang cỏ đến nhử nơi mỏm sẽ rõ.

2) Thiền sư Dược Sơn, trong buổi vãn tham không đốt đèn. Sư nói: “Ta có một câu, đợi cho trâu nghé sinh con rồi sẽ nói cho quý vị biết. Bấy giờ có một thầy tăng bước ra, lên tiếng: “Nghé sinh con rồi. Chỉ có Hòa thượng không chịu nói đó thôi”. Sư kêu thị giả mang đèn đến. Thầy tăng đó rút lui vào trong chúng.

Thiền sư Phật Nhãn Thanh Viễn làm bài tụng:

Độc ngưu sinh tử phả tương am
Lưỡng nhãn thông hồng sắc tợ lam
Bả hỏa chiếu lai vô mịch xứ
Đại gia phổ thỉnh nhất thời tham.
Trâu nghé đẻ con biết nhau quá
Hai mắt đỏ kè mặt như chàm
Mang lửa rọi vào chuồn mất nhá !
Cả bọn xin giảng một thời tham (cứu).

3) Thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm hỏi Thiền sư Nam Tuyền: Có biết người nào đi đâu không? Nam Tuyền đáp: “Đi đến nhà thí chủ ở trước núi làm một con trâu. Tòng Thẩm nói: “Cảm ơn sư chỉ cho biết”. Nam Tuyền bảo: “Đêm rồi canh ba trăng rọi cửa” (rọi cửa sổ: ăn trộm chắc!)

4) Thiền Sư Qui Sơn Linh Hựu dạy chúng tăng: “Lão tăng, một trăm năm sau, xuống nhà thí chủ dưới núi làm một con trâu. Hông bên trái viết năm chữ (mà tiếng Việt lại thành bảy chữ): Ông Thầy Chùa Qui Sơn tên Đó. Bấy giờ, nếu gọi nó là ông thầy chùa Qui Sơn, thì lại là con trâu. Mà gọi con trâu, té ra là ông thầy chùa Qui Sơn tên Đó. Phải gọi là thứ gì mới được? Ngưỡng Sơn bước ra lạy rồi bỏ đi”

Thiền sư Đạo Ngô-Ngộ Chân tụng:

Thủy hồ Qui Sơn trực triệt ki
Phân minh nhân loại hiển u kỳ
Lưỡng biên xuất ngữ phân thân xứ
Dạ điểu đầu lâm hiểu phục phi.
Con trâu, Qui Sơn, thiệt mù tịt
Rõ ràng là người mới là kỳ
Bên này bên kia có chữ hết
Chim đêm về rừng sớm bay đi.

5) Thiền sư Hoàng Bá Hi Vận, một hôm, cùng đi dạo với quan tướng quốc họ Bùi, thấy bác thợ cày cày ruộng, bùn lún sâu, trâu đi không được. Bác đánh nó, quan họ Bùi động lòng trắc ẩn, Sư bảo: “Đét cho đau nữa đi!” Họ Bùi nói: “Ông bạn quý, sao lại nói được như thế?” Sư bảo: “Cái thứ hai chân, cày làm sao được”.

Thiền sư Thủy Am tụng:

Vận sư Bùi tưởng lão bà tâm
Bất cố nê thâm dữ thủy thâm
Thống bỗng độc chùy hành dị loại
Túng giao bì hạ huyết lâm lâm.
Sư Vận, tướng Bùi, tâm bà nội
Chẳng kể bùn sâu hay nước sâu
Gậy đau, chảy độc hành khác loại
Cái nào cũng máu nhuộm da trâu.

6) Đầu tử Đồng Thiền sư, có thầy tăng hỏi: “Con trâu trắng sờ sờ ra đó, như thế nào?” Sư bảo: “Rào rạo”. Thầy tăng lại hỏi: “Nó uống hút cái gì?” Sư bảo: “Ken két”.

Thiền sư Huệ Giác tụng:

Lộ địa bạch ngưu khởi vấn đoan
Tuỳ cơ chả chả xì nha hàn
Bất tri ẩm hám thị hà vật
Nghiết nghiết trực giao thương hải càn.
Trâu trắng sờ sờ bày chuyện kháo
Cứ tùy răng lạnh kêu rào rạo
Chẳng biết uống hút cái thứ gì
Ken két làm cho biển khô ráo.

(THÍCH TUỆ SỸ)
THANK YOU
 


Chuyển nhanh:


Đang xem chủ đề này: 1 Khách

Liên hệ | Gốc Quê | Lên trên | Nội dung | Bản rút gọn | Tin RSS