Đánh giá chủ đề:
  • 0 Votes - 0 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
BỆNH TRẦM CẢM?
01-07-2015, 05:56 AM (Được chỉnh sửa: 01-07-2015 09:09 PM bởi dieuquang.)
Bài viết: #1
BỆNH TRẦM CẢM?
MỘT CĂN BỆNH NGHE QUA BÌNH THƯỜNG NHƯNG SỰ THẬT THÌ :

Ước tính cứ 10 bệnh nhân trầm cảm nặng tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1 thì đến 4 người muốn tự sát và một người đã thử quyên sinh nhưng thất bại. Đây là bệnh khá phổ biến hiện nay.

BỆNH DỄ ĐƯA ĐẾN HÀNH ĐỘNG TỰ SÁT

Tổ chức Y tế Thế giới nhận định sức khỏe tâm thần có tầm quan trọng thứ 4 sau các bệnh tim mạch, ung thư và đái tháo đường. Trong đó, rối loạn trầm cảm là vấn đề lớn trong lĩnh vực tâm thần học, là bệnh khá phổ biến, chiếm tỷ lệ cao tại nhiều nước trên thế giới, như Mỹ gần 10%.

Tại Việt Nam, một nghiên cứu quốc gia năm 2002 cho thấy rối loạn trầm cảm chiếm tỷ lệ đến gần 4% dân số. Đây là con số rất đáng quan tâm. Cơ chế bệnh sinh của trầm cảm có nhiều giả thiết được đưa ra, trong đó liên quan đến tâm lý được nhấn mạnh, ông La Đức Cương, Giám đốc Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1 cho biết tại hội thảo liệu pháp tâm lý trong điều trị trầm cảm diễn ra ở Hà Nội ngày 29/6. Triệu chứng của bệnh có thể bao gồm cảm thấy buồn và vô vọng, không thích thú với những hoạt động như trước đây, có vấn đề về giấc ngủ hoặc lúc nào cũng mệt mỏi, đau nhức khắp cơ thể. Thực tế nhiều người không hề nghĩ đây là biểu hiện của bệnh.

Trong suy nghĩ của nhiều người, không ai đi khám vì buồn chán đời mà chỉ đi khám bệnh thực thể. Bệnh nhân đến khám cũng không tin trầm cảm là bệnh. Một số người hiểu nhầm trầm cảm chỉ là việc ai đó cảm thấy buồn hoặc không có động lực hay lười biếng. "Thực tế trầm cảm là một bệnh phức tạp và nghiêm trọng gây ra bởi sự mất cân bằng các chất sinh hóa ở trong não và có thể bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài", thạc sĩ Nguyễn Thanh Tâm, chuyên gia của Basic Needs, một tổ chức phi chính phủ tại Anh nói.

Hậu quả của bệnh có thể rất nặng nề. Khả năng người bị trầm cảm tự tử khá cao. Khoảng 15% bệnh nhân trầm cảm có hành vi tự sát ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời và khoảng 4% bệnh nhân chết do tự sát. Việt Nam chưa có nghiên cứu cụ thể về việc tự sát ở những bệnh nhân trầm cảm. Tuy nhiên, tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1, các bác sĩ ước tính cứ 10 bệnh nhân trầm cảm nặng thì 4 người có ý tưởng, suy nghĩ tự sát và một đã thử tự sát nhưng thất bại.

Điều trị trầm cảm bằng thuốc và bằng liệu pháp tâm lý. Điều trị bằng thuốc thường hiệu quả, khoảng 65% bệnh nhân điều trị thành công bằng thuốc và khá dễ dàng cho y bác sĩ. Bệnh nhân thường thích điều trị bằng thuốc vì đơn giản, không đòi hỏi nhiều nỗ lực. Tuy nhiên, khoảng 1/3 bệnh nhân có tác dụng phụ do thuốc như buồn nôn, cảm thấy bồn chồn, lo lắng, hoa mắt, cảm thấy mệt mỏi… Các tác dụng phụ sẽ giảm dần theo thời gian, có thể bác sĩ phải đổi thuốc nếu các tác dụng phụ nhiều và gây khó chịu cho bệnh nhân. Một hạn chế quan trọng nữa là khi dừng uống thuốc, các triệu chứng có thể quay trở lại.

Phương pháp điều trị thứ hai là tâm lý trị liệu. Bệnh nhân nói chuyện với y tá, nhà tâm lý, cán bộ công tác xã hội, bác sĩ… để học những cách mới, hiệu quả hơn khi suy nghĩ và các hành động mới. Để điều trị hiệu quả, bệnh nhân gặp gỡ với nhà trị liệu trong khoảng 45 phút một lần mỗi tuần, trong vòng khoảng 2 tháng.

Vì vậy, điểm yếu của phương pháp này là đòi hỏi nhiều công sức và thời gian từ cả bệnh nhân lẫn nhà trị liệu so với điều trị bằng thuốc. Nếu thực hiện chính xác, khoảng 75% bệnh nhân có thể thành công với tâm lý trị liệu và hầu như không có khả năng tái phát.

"Biện pháp tâm lý thực chất là những câu nói trong từng tình huống, giúp hỗ trợ tư duy tích cực, hợp lý hơn để người bệnh không có những suy nghĩ tiêu cực. Đơn giản như việc bỏ thuốc, ai cũng biết là cần phải bỏ nhưng không phải ai cũng bỏ được. Có thể nói đó là thuốc giảm đau tinh thần, người bệnh cần được hướng dẫn, tự tập luyện", thạc sĩ Tâm chia sẻ.

Tại nước ta, hiện nay bệnh nhân trầm cảm thường chỉ được kê thuốc, ít người được tư vấn, hỗ trợ về tâm lý. Chỉ có một số bệnh viện áp dụng liệu pháp tâm lý này kèm thêm điều trị bằng thuốc. Từ năm 2009-2011, điều trị trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi tại cộng đồng được tiến hành thử nghiệm tại Đà Nẵng và Khánh Hòa. Bước đầu cho những kết quả khả quan. Các bệnh nhân được kết hợp liệu pháp tâm lý có sự cải thiện tốt hơn trong mọi lĩnh vực: trầm cảm, lo âu, chức năng sức khỏe thể chất và cảm xúc.

Biểu hiện rối loạn trầm cảm là buồn chán kéo dài ít nhất 2 tuần, người bệnh cảm giác không có năng lượng, không thích thú với việc gì kể cả việc ngày xưa thích, không ăn, không gặp gỡ bạn bè… Nếu buồn chán vài ngày thì không gọi là trầm cảm. Nhiều người cho rằng trầm cảm không cần thiết phải điều trị vì tự nó sẽ qua đi. Không được điều trị thành công thì khả năngTÁI PHÁT bệnh trong tương lai là rất cao, khoảng 50%.( khi gặp trường hợp nặng óc phải nghĩ nhiều dễ bị lại, dq)

DẤU HIỆU TRẦM CẢM

Muốn biết tự kỷ với trầm cảm có gì khác nhau không, biểu hiện ra sao, cái nào nghiêm trọng hơn?
Luôn sợ giao tiếp với người khác, ít nói hoặc ăn nói lắp bắp, lủng củng. Thích làm việc một mình, không thích ai xen vào công việc cũng như cuộc sống. Trong lúc ngủ, luôn có những suy nghĩ tiêu cực như chán đời, muốn tự sát. Vậy bị trầm cảm hay tự kỷ? Cách điều trị ra sao?

Tự kỷ và trầm cảm là hoàn toàn khác nhau, trong đó:

Tự kỷ là một khuyết tật phát triển suốt đời được thể hiện trong vòng 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào không phân biệt giới tính, chủng tộc, giàu nghèo và địa vị xã hội. Tự kỷ được biểu hiện ra ngoài bằng những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, hành vi, sở thích và hoạt động mang tính hạn hẹp, lặp đi lặp lại.

Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn rầu, mất sự thích thú hoặc khoái cảm, cảm giác tội lỗi hoặc giá trị bản thân thấp, rối loạn giấc ngủ, ăn uống và kém tập trung. Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát, làm suy giảm đáng kể khả năng làm việc, học tập hoặc đương đầu với cuộc sống hằng ngày của một cá nhân. Ở dạng nặng nhất, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử. Nếu nhẹ, người bị trầm cảm có thể được chữa trị không cần dùng thuốc.

Đối chiếu với những thông tin TRÊN ,NÊN đến bệnh viện tâm thần hoặc khoa thần kinh của một bệnh viên trung ương nào đó để được các bác sĩ khám và chẩn đoán xem có mắc chứng trầm cảm hay không. Tùy thuộc vào độ nặng nhẹ của bệnh, các bác sẽ cho phác đồ điều trị phù hợp. Yên tâm, bệnh trầm cảm có thuốc chữa và hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu tin tưởng làm theo chỉ dẫn của bác sĩ.

NHỮNG HIỂU LẦM TAI HẠI

Dưới đây là những hiểu lầm phổ biến về bệnh trầm cảm và những lý giải khoa học, thực tế về tình trạng này.

Tưởng tượng: Lao động vất vả đánh bay trầm cảm

Cứ 6 người thì có một người từng bị trầm cảm tại thời điểm nào đó trong đời, vì vậy, có nhiều lời thêu dệt về cách chữa và chứng bệnh phổ biến này. Một trong số những điều này là: Hãy lao vào công việc và bạn sẽ cảm thấy khá hơn. Với các trường hợp buồn phiền vừa phải, cách này thực sự hữu ích nhưng trầm cảm là một loại khác. Làm việc quá sức thậm chí có thể là một dấu hiệu bệnh trầm cảm, đặc biệt là ở nam giới.

Tưởng tượng: Trầm cảm không phải là một bệnh thực sự

Trầm cảm là một bệnh y khoa và nguyên nhân hàng đầu gây mất khả năng làm việc ở người trưởng thành Mỹ. Nó dễ nhầm lẫn với sự buồn phiền thông thường. Các bằng chứng sinh học về bệnh này có thể được nhìn thấy qua quét não - phương pháp thể hiện các mức độ hoạt động bất thường. Các hóa chất quan trọng trong não cũng thể hiện sự mất cân bằng ở những người trầm cảm.

Sự thật: Đàn ông trầm cảm khó phát hiện hơn

Khi một người đàn ông bị trầm cảm, những người thân yêu của anh ta và ngay cả bác sĩ khám cho anh ta có thể cũng không nhận ra bệnh. Đó là vì nam giới ít có khả năng nói về những cảm giác của họ hơn so với phụ nữ - và một số đấng mày râu trầm cảm không biểu lộ sự buồn rầu, chán nản. Thay vào đó, nam giới có thể tỏ ra dễ bực bội, giận dữ hay bồn chồn. Họ thậm chí có thể bỗng nhiên gây bạo lực với những người khác. Một số đấng mày râu cố gắng chống chọi với trầm cảm thông qua các hành vi liều lĩnh, uống rượu hay nghiện ngập.

Tưởng tượng: Trầm cảm chỉ là tự thương thân

Theo văn hóa, chúng ta thường ngưỡng mộ sức mạnh và tinh thần cứng rắn và nhanh chóng dán nhãn cho những ai lùi bước là ủy mị, hèn nhát. Nhưng những người bị bệnh trầm cảm không lười biếng hay đơn giản là cảm thấy xót thương cho chính mình. Họ cũng không thể "tỏ ý chí" để đuổi bệnh trầm cảm đi. Trầm cảm là một bệnh y khoa - một vấn đề sức khỏe liên quan tới những thay đổi trong não. Giống như các bệnh khác, nó thường được cải thiện bằng biện pháp điều trị thích hợp.

Thực tế: Bất cứ ai cũng có thể bị trầm cảm

Nhà thơ hay hậu vệ của đội bóng, kẻ nhút nhát hay người bạo dạn, bất cứ ai từ bất cứ dân tộc nào cũng có thể mắc trầm cảm. Bệnh này phổ biến thứ hai ở phụ nữ cũng như nam giới nhưng phụ nữ mắc trầm cảm thường dễ phát hiện và dễ tìm kiếm sự trợ giúp hơn. Nó thường được chú ý ở những người ở độ tuổi 18-20 hay 20-30 nhưng khởi phát có thể ở bất cứ tuổi nào. Những cú sốc trong cuộc đời có thể gây ra trầm cảm nhưng cũng có khi chỉ khiến người ta buồn phiền, chán nản nhất thời.

Thực tế: Bệnh trầm cảm len lỏi từ từ

Bịnh trầm cảm xảy ra rất chậm cho nên đôi lúc bệnh nhân không nhìn ra được những dấu hiệu của nó vì những triệu chứng trầm cảm tăng từ từ. Một ngày xấu nào đó - như mọi ngày khác, bạn bắt đầu bỏ việc, bỏ học hay trốn khỏi các hoạt động xã hội. Một hình thức trầm cảm nhẹ, gọi là dysthymia, có thể kéo dài nhiều năm như một bệnh mãn tính - chỉ như tình trạng phiền muộn có thể lặng lẽ phá hoại dần công việc và các mối quan hệ của bạn. Trầm cảm cũng có thể trở thành một bệnh trầm trọng, làm người ta mất khả năng làm việc. Nếu được điều trị, nhiều người cảm thấy đỡ hẳn trong 4-6 tuần.

Tưởng tượng: Chữa trầm cảm là phải dùng thuốc cả đời

Thuốc chỉ là một trong những cách được sử dụng để điều trị trầm cảm. Kêu gọi sự giúp đỡ không có nghĩa là bạn sẽ phải chịu áp lực phải lấy thuốc kê đơn và uống liên tục. Thực tế, các nghiên cứu cho rằng "liệu pháp trò chuyện" hiệu quả tốt như thuốc cho những trường hợp trầm cảm nhẹ đến trung bình. Ngay cả khi bạn sử dụng các thuốc chống trầm cảm, chắc chắn không phải là kéo dài cả đời. Bác sĩ sẽ giúp bạn quyết định thời gian nào có thể dừng thuốc.

Tưởng tượng: Những người trầm cảm thì hay khóc

Không phải luôn như vậy. Một số người không khóc hoặc thậm chí tỏ ra buồn thảm khi họ bị trầm cảm. Thay vì vậy, họ có cảm xúc "trống rỗng" và có thể cảm thấy vô giá trị hay vô dụng. Ngay cả không có các triệu chứng xúc động mạnh, không điều trị trầm cảm có thể khiến người bệnh không có được cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, thậm chí phá hủy gia đình họ.

Thực tế: Tiền sử gia đình không phải là số mệnh

Nếu có ai đó trong phả hệ gia đình bạn từng bị trầm cảm, bạn cũng có thể mắc bệnh này. Nhưng khả năng bạn không mắc cũng khá cao. Những người có tiền sử gia đình mắc trầm cảm cần chú ý tới các dấu hiệu sớm của bệnh này và có hành động tích cực ngay - cho dù là học cách giảm stress, chăm tập thể dục, tư vấn tâm lý hay áp dụng cách điều trị chuyên sâu khác.

Tưởng tượng: Trầm cảm là một phần của lão hóa

Hầu hết mọi người đương đầu với thử thách của tuổi tác mà không trở nên trầm cảm. Nhưng khi điều này xảy ra, nó có thể bị bỏ qua. Người già có thể giấu nỗi buồn của họ hay có các triệu chứng mơ hồ, khác biệt: chán ăn, tình trạng đau, nhức nặng hơn, thói quen ngủ thay đổi. Các vấn đề về sức khỏe có thể gây ra trầm cảm ở người già - và trầm cảm có thể phục hồi chậm hơn từ những người từng bị nhồi máu cơ tim hay trải qua phẫu thuật.

Thực tế: Trầm cảm mô phỏng chứng mất trí

Ở người già, trầm cảm có thể là căn nguyên gốc rễ của vấn đề về trí nhớ, sự lẫn lộn và trong một số trường hợp là ảo giác. Người chăm sóc và các bác sĩ có thể nhầm lẫn các vấn đề này là triệu chứng của mất trí nhớ hay sự suy giảm trí nhớ liên quan tới tuổi già. Phần lớn các trường hợp người già trầm cảm có thể điều trị bằng thuốc. Liệu pháp tâm lý cũng hữu ích, đặc biệt cho những người không thể hay không muốn dùng thuốc.

Tưởng tượng: Trò chuyện sẽ làm bệnh nặng thêm

Nhiều người trầm cảm từng được khuyên không "day đi day lại" bệnh của mình bằng cách trò chuyện về nó. Thực tế ngày nay có bằng chứng cho thấy việc trao đổi theo hướng dẫn với nhà chuyên môn có thể giúp mọi việc tốt hơn nhiều. Những hình thức trị liệu tâm lý khác nhau có thể giúp điều trị trầm cảm bằng cách giải quyết những kiểu suy nghĩ tiêu cực, cảm giác vô thức hay các trục trặc trong quan hệ. Bước đầu tiên bạn nên làm khi nghi ngờ mình hay người thân trầm cảm là trò chuyện với một chuyên gia về sức khỏe tâm thần.

Thực tế: Suy nghĩ tích cực rất hữu ích

Những lời khuyên cũ "tập trung vào mặt tích cực" thực sự hữu ích trong thực hành để xóa bỏ trầm cảm. Nó được gọi là liệu pháp nhận thức hành vi - giúp người bệnh học những cách suy nghĩ và hành vi mới. Từ đó, hành vi, "độc thoại" tiêu cực được nhận ra và thay thế với những ý nghĩ lạc quan và tâm trạng tích cực hơn. Dùng độc lập hay kết hợp với thuốc, liệu pháp nhận thức hành vi đều hiệu quả với nhiều người.

Tưởng tượng: Thiếu niên có biểu hiện chán nản, không hạnh phúc là tự nhiên

Mặc dầu nhiều thanh thiếu niên có tính khí thất thường, hay cãi lại và tò mò về "những mặt trái" thì sự buồn phiền hay cáu kỉnh không phải là bình thường với teen. Khi cảm giác bất hạnh kéo dài hơn hai tuần, đó có thể là dấu hiệu của trầm cảm - tình trạng mà cứ 11 thanh thiếu niên thì có một em mắc phải. Các dấu hiệu khác cho thấy teen cần sự trợ giúp bao gồm: triền miên buồn chán hay cáu kỉnh ngay cả với bạn bè, nói không thích thú với những hoạt động họ vốn yêu thích hay đột nhiên học hành sa sút.

Thực tế: Tập thể dục là phương thuốc tốt

Các nghiên cứu cho thấy tập thể dục thường xuyên, cường độ vừa phải có thể cải thiện các triệu chứng trầm cảm và hiệu quả tốt chẳng khác gì một số loại thuốc dành cho những người trầm cảm nhẹ và vừa. Tập luyện cùng một nhóm người hay tập với bạn bè sẽ càng làm tăng hiệu quả.

Tưởng tượng: Trầm cảm khó chữa

Thực tế là hầu hết những người tích cực điều trị trầm cảm đều cải thiện tình trạng. Một nghiên cứu lớn do Viện sức khỏe tâm thần quốc gia Mỹ thực hiện, cho thấy, 70% bệnh nhân trầm cảm hết triệu chứng nhờ thuốc - mặc dù có thể không phải ngay với loại thuốc đầu tiên họ dùng. Nghiên cứu cho thấy cách điều trị tốt nhất là kết hợp giữa thuốc và liệu pháp trò chuyện.

Thực tế: Không phải cứ buồn phiền chán nản là trầm cảm

Một số sự kiện trong đời có thể gây đau buồn hay thất vọng nhưng không trở thành bệnh trầm cảm. Đau buồn là cảm xúc thông thường sau cái chết, việc ly dị, mất công việc hay bị chẩn đoán mắc bệnh nan y. Đầu mối cần thiết để xác định bệnh và việc điều trị: Nỗi buồn kéo dài liên tục, từ ngày này sang ngày khác không chấm dứt. Khi tâm trạng buồn phiền của một người chỉ do các yếu tố bên ngoài như thời tiết, sự cố..., họ thường sẽ dễ quên và vui lên sau một thời gian ngắn.

Thực tế: Hy vọng về ngày mai tươi sáng hơn là có thật

Trong cơn trầm cảm, người ta nghĩ chẳng có hy vọng nào về cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự tuyệt vọng này là một phần của bệnh, không phải là thực tế. Nhờ điều trị, suy nghĩ tích cực dần dần thay thế các suy nghĩ tiêu cực. Chất lượng giấc ngủ và cảm giác thèm ăn sẽ được cải thiện khi trầm cảm lui dần. Và những người từng tìm tới chuyên gia tư vấn cho liệu pháp trò chuyện, được trang bị các kỹ năng đương đầu với stress sẽ nhanh thoát khỏi trầm cảm hơn.

CHÚ Ý

GHI CHÚ SAU DO KINH QUA THỰC TIỂN, DQ XIN CHO BIẾT THÊM MỘT SỐ VẤN ĐỀ SAU:

- Thuốc chống trầm cảm TÂY Y thường chỉ có tác dung sau 6 tháng. Thường kèm theo các biến chướng phụ không mong muốn như . suy gan , thận, nhất là ảnh hưởng tim mạch , một số thuốc gậy ra loạn nhịp tim > VÌ THẾ nếu bác sỉ cho toa DQ đề nghị tìm cách xem cách thức hường dẫn và thành phần của thuốc để TỰ MÌNH quyết định : RẤT QUAN TRỌNG.( phải theo dõi kỷ khi dùng thuốc kẻo bệnh chưa dứt lại thêm bệnh khác Nguy hơn, thực tế dùng thuốc không chỉ dùng một thứ thuốc mà có thể hợp ngay căn bệnh )

- KHI DÙNG THUỐC TÂY Y: thời gian đầu uống thuốc người bệnh dễ có triệu chứng trầm cảm nặng hơn khi chưa quen thuốc > VÌ THẾ DỄ GÂY Ý MUỐN TỰ TỬ!!!

-KHI BỆNH NHÂN LÀ NGƯỜI LỚN TUỔI : Cần luôn có một người lớn kèm bên theo dõi, người này phải có chút hiểu biết tâm lý, hoặc là người mà bệnh nhân tin tưởng hoặc thương yêu nhất. Người này cần khích lệ & tránh cho bệnh nhân gặp THÊM những vấn đề có thể tăng stress.

- Càng nên CỐ GẮNG cho người bệnh hòa nhập vào một tập thể có thể làm bệnh nhân vui lạc quan hơn.
- Chú ý: người bệnh thường KHÔNG thích tiếp xúc đám đông , người chăm sóc nên để ý việc này để kéo người bệnh hoa nhập lại đám đông.

- Theo kinh nghiệm nên : TÌM thầy, nơi CHÂM CỨU như Viện y học dân tộc khai bệnh và KIÊN NHẨN CHÂM LÂU DÀI > khi nào ngũ ngon lại được thì kết quả Tốt rồi đấy . dq quên nói bệnh Trầm cảm kéo theo MẤT NGŨ nặng uống thuốc ngũ đôi khi không ép phê!!!.

Ngoài ra có triệu chứng BỐC HỎA ; việc này rất thường xảy ra ( đôi khi cả trong giấc ngũ).
Cái triệu chứng bốc hỏa chỉ có Châm Cứu mới công hiệu mà thôi ( ngày nay châm cứu tại bệnh viên được thay kim mỗi lần châm, không còn như xưa kim châm dùng nhiều lần, kim sử dụng một lần khoảng 8 ngàn một bịch 8 cây .)

- Và thêm hiệu pháp Tâm Lý> nếu người bệnh theo đạo nào thì nên sinh hoạt thêm nhờ đức tin hổ trợ. ex: đi chùa để nghe câu kinh kệ , tiếng chuông, khung cảnh... > có thêm kết quả tốt.dq

MONG BÀI NÀY HỬU ÍCH CHO BÀ CON KHI XEM QUA.
THANK YOU
[-] dieuquang được 2 thành viên cám ơn cho post này:
langtrang (02-07-2015 08:01 AM), baothai (02-07-2015 10:57 AM)
02-07-2015, 08:02 AM
Bài viết: #2
RE: BỆNH TRẦM CẢM?
xem ra benh nay nguy hiem qua o the coi thuong duoc ..

Batting EyelashesHãy sống là chính mình, bình thường nhưng không tầm thường.Batting Eyelashes
THANK YOU
[-] langtrang được 2 thành viên cám ơn cho post này:
baothai (02-07-2015 10:57 AM), dieuquang (07-07-2015 05:32 AM)
06-09-2015, 09:02 PM
Bài viết: #3
RE: BỆNH TRẦM CẢM?
ĐỀ TÀI VỀ BỆNH TRẦM CẢM NHIỀU NGƯỜI CHỈ NGHĨ ĐÓ CHỈ LÀ MỘT STRESS THOÁNG QUA, NHƯ ĐÃ NÓI Ở TRÊN, DQ XIN UP THÊM ĐỂ BÀ CON THẤY TÁC HẠI KHÔNG LƯỜNG ĐƯỢC > TỪ ĐÂY SẼ CHÚ Ý TRÁNH TỰ MÌNH GÂY STRESS KÉO DÀI CHUYỂN QUA TRẦM CẢM THÌ QUÁ MUỘN.
THUỐC MEN THEO TÂY HỌC KG KHÉO CHƯA KỊP LÀ XONG RỒI CÒN PHẢI PHỐI HỢP CHÂM CỨU VÀ YẾU TỐ MẠNH NHẤT LÀ NGƯỜI BỆNH CÓ NGƯỜI THÂN LỚN TUỔI ĐỦ NGĂN NGỪA CÁC BẤT NGỜ VÀ TẠO ĐƯỢC CÁI SUY NGHĨ NGƯỢC LẠI CHO NGƯỜI BỆNH.MỜI XEM ĐỂ THẤY TÁC HẠI ĐỂ NGỪA MÌNH VÀ NGƯỜI THÂN

Một nghiên cứu quy mô lớn đã chứng minh bệnh nhân trầm cảm có những dấu hiệu cho thấy nguy cơ tự tử rất cao, theo Reuters.

Những dấu hiệu nổi bật của một người có NGUY CƠ TỰ TỬ CAO bao gồm hành vi mạo hiểm, hành vi kích động, sự hiện diện của “các trạng thái trầm cảm hỗn hợp” bao gồm cả trầm cảm và các triệu chứng rối loạn thần kinh.

Nghiên cứu được thực hiện trên 2.811 bệnh nhân trầm cảm, trong đó có 628 bệnh nhân từng có ý định tử tự. Những nhà nghiên cứu cố gắng tìm ra điểm khác biệt về hành vi và tính cách giữa những người từng có ý định tự tử so với những người không có ý định tự tử. “Nhờ số lượng lớn bệnh nhân tham gia nghiên cứu này, chúng tôi có thể xác định những triệu chứng đặc biệt có nhiều khả năng dẫn đến ý định tự tử nhất,” Dina Popovic, bác sĩ tâm lý của Bệnh viện Barcelona (Tây Ban Nha), trưởng nhóm nghiên cứu cho biết.

Những trạng thái trầm cảm hỗn hợp là dấu hiệu có khả năng dẫn đến nguy cơ tự tử cao nhất. Nghiên cứu cho thấy 40% bệnh nhân trầm cảm có nguy cơ rơi vào các trạng thái tiêu cực này. Trong khi các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần chỉ có thể nhận diện 12% trường hợp bệnh nhân. Theo bác sĩ Dina, điều này nghĩa là những phương pháp tiêu chuẩn đang bỏ sót rất nhiều bệnh nhân có nguy cơ tự tử.

Những nhà nghiên cứu cũng đã chứng minh, những bệnh nhân trầm cảm có hành vi kích động hoặc mạo hiểm như lái xe ẩu và nguy hiểm hoặc có dấu hiệu rối loạn thần kinh như đi vòng quanh phòng, cởi quần áo ra và mặc vào liên tục hoặc những hành vi tương tự, có nguy cơ tự tử cao hơn 50% so với bình thường.
“Kết quả của nghiên cứu này rất quan trọng, giúp định hướng cho các bác sĩ trị liệu về những dấu hiệu cần đặc biệt chú ý và tìm ra ở các bệnh nhân trầm cảm,” bác sĩ Dina cho biết.

PHÁT HIỆN NGUY CƠ TRẦM CẢM CỦA TRẺ QUA ĐÔI MẮT

Kích cỡ giãn nở của đồng tử ở trẻ em khi được cho xem những hình ảnh nhất định có thể dự đoán cậu hay cô bé ấy có nguy cơ bị trầm cảm hay không trong 2 năm sau đó, theo hãng tin UPI.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Binghamton ở New York (Mỹ) đã phát hiện ra rằng việc đo phản ứng cơ học trong mắt là một chỉ dấu cảnh báo nguy cơ một đứa trẻ có mẹ bị trầm cảm sinh ra có mắc chứng bệnh này luôn hay không.

“Chúng tôi nghĩ rằng quá trình nghiên cứu vấn đề này cuối cùng có thể dẫn đến những cuộc tầm soát đại trà tại phòng mạch của bác sĩ nhi nhằm đánh giá rủi ro bị trầm cảm ở trẻ trong tương lai”, ông Brandon Gibb, giáo sư tâm lý tại Đại học Binghamton, cho biết.

Trong cuộc nghiên cứu quy mô nhỏ nhưng có tính thuyết phục cao, con của 47 bà mẹ có tiền sử bị rối loạn trầm cảm nghiêm trọng được cho xem những hình ảnh vui vẻ, giận dữ và buồn thảm; trong khi các nhà nghiên cứu theo dõi độ giãn nở của đồng tử trong mắt của các đối tượng nghiên cứu.

Nhóm chuyên gia đã theo dõi các cặp đôi mẹ con trong 2 năm sau đó. Họ nhận thấy trẻ có đồng tử giãn nở nhiều hơn khi được cho xem hình ảnh buồn thảm có những triệu chứng trầm cảm ở mức cao hơn và có thời gian dẫn đến một đợt bộc phát trầm cảm “đáng kể về mặt lâm sàng” ngắn hơn.

Các kết quả nghiên cứu không có liên quan đến bất kỳ phản ứng nào của đồng tử với những hình ảnh vui vẻ hoặc giận dữ.

Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên chuyên san Journal of Abnormal Psychology.
THANK YOU
[-] dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này:
baothai (07-09-2015 07:34 AM)
10-04-2017, 04:21 PM
Bài viết: #4
RE: BỆNH TRẦM CẢM?
CẬP NHẬT THỆM NGÀY 10/04/2017

BỆNH TRẦM CẢM HIỆN NAY ĐẠNG ĐƯỢC BÁO ĐỘNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ RIÊNG TẠI VN , DQ XIN TIẾP THÊM VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẬP NHẬT ĐƯỢC MONG BÀ CON CÙNG XEM ĐỪNG BỎ QUA KHI GHÉ TRANG NHÀ GQ.

Những thay đổi nhỏ của cơ thể ít người để ý có thể là những dấu hiệu đầu tiên của trầm cảm mà bạn đã bỏ qua.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết, trên thế giới có gần 300 triệu người mắc trầm cảm. Trong đó Nhật Bản có khoảng 3% dân số, con số này tại Mỹ là 17%.

Tại Việt Nam, WHO ước tính có khoảng 3,6 triệu người mắc căn bệnh này, chiếm 4% dân số (số liệu 2015). Trong đó có khoảng 5.000 người chết vì tự tử do người trầm cảm có nguy cơ tự tử cao gấp 25 lần so với người khác.

10 DẤU HIỆU

PGS.TS Nguyễn Doãn Phương, Viện trưởng Viện Sức khoẻ tâm thần, BV Bạch Mai cho biết, trầm cảm là một rối loạn phổ biến, đây không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối. Bất kỳ ai cũng có thể mắc trầm cảm.
Trong đó phổ biến nhất ở độ tuổi từ 18-45, tỉ lệ ở phụ nữ lớn gấp đôi nam giới. Nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng phác đồ, trầm cảm sẽ được chữa khỏi.

Dưới đây là 10 dấu hiệu phổ biến nhận biết trầm cảm:

- Cảm giác buồn chán, trống rỗng

- Khó tập trung suy nghĩ, hay quên

- Luôn cảm giác mệt mỏi, không muốn làm việc gì

- Cảm giác mình có tội lỗi, vô dụng, không xứng đáng

- Mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều

- Hay cáu gắt, giận dữ

- Giảm thích thú trong các hoạt động hoặc sở thích hàng ngày

- Giảm cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều

- Nghĩ về cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát

TS Dương Minh Tâm, Trưởng phòng điều trị rối loạn liên quan stress, Viện Sức khoẻ tâm thần cho biết thêm, ngoài những dấu hiệu trên, bệnh nhân trầm cảm còn có 18-22 triệu chứng cơ thể khác như đau đầu, đau tức ngực, các rối loạn tiêu hóa, rối loạn kinh nguyệt, giảm ham muốn, đau khớp…

“Tuy nhiên không phải cứ có một trong những dấu hiệu trên là mắc trầm cảm, cần phải có thêm tiêu chuẩn thời gian. Các triệu chứng này phải xuất hiện liên tục từ 2 tuần trở lên mới được chẩn đoán là trầm cảm”, TS Tâm chia sẻ.

Trong đó, cần đặc biệt lưu tâm đến 3 biểu hiện chính: Đột ngột giảm khí sắc (ủ dột, u sầu, chán chường); giảm ham thích so với trước đây (trước đây thích shopping, buôn dưa lê, xem phim... nay không còn); giảm năng lượng (dễ mệt mỏi)... 7 biểu hiện còn lại là những biểu hiện phổ biến.

Ở giai đoạn trầm cảm nhẹ, bệnh nhân sẽ 1-3 biểu hiện chính nói trên và có từ 1-2 biểu hiện phổ biến.

Giai đoạn trầm cảm nặng, bệnh nhân có đầy đủ 8-10 biểu hiện.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến trầm cảm như căng thẳng, bị sang chấn tâm lý trong cuộc sống, học tập, trong quan hệ gia đình, xã hội hoặc sau khi mắc bệnh khác.

Những người có nhân cách dễ bị tổn thương, ít nói, ít chia sẻ, hay lo lắng dễ mắc trầm cảm hơn những người khác.

80% bị nhầm với bệnh khác

Theo TS Tâm, việc điều trị trầm cảm hiện nay hết sức khó khăn, do phần lớn bệnh nhân không được nhận biết và điều trị sớm.

“Có đến 80% bệnh nhân trầm cảm ban đầu đi điều trị các bệnh lý, tìm đến bác sĩ nội, bác sĩ ngoại khoa để khám các triệu chứng cơ thể mà không quan tâm đến triệu chứng cảm xúc”, TS Tâm thông tin.

Ngay tại Mỹ, một nghiên cứu năm 2014 cho thấy có khoảng 2/3 bệnh nhân trầm cảm không nhận ra mình có bệnh và không được điều trị.

Theo PGS.TS Trần Văn Cường, Chủ tịch Hội Tâm thần học Việt Nam, nguyên do khó nhận biết do trong rối loạn trầm cảm có tới 13 thể, trong đó có nhiều thể biểu hiện ra ngoài giống hệt tâm thần phân liệt hay trùng lặp với các triệu chứng bệnh lý như tim mạch, gan, phổi, xương khớp... nên khám mãi không ra bệnh gốc.

Trầm cảm và các bệnh lý khác cũng có sự tương tác 2 chiều, trong đó trầm cảm là yếu tố nguy cơ khiến thời gian điều trị các bệnh nội khoa kéo dài hơn và bản thân những người mắc bệnh lý mãn tính cũng có tỉ lệ trầm cảm lớn hơn như bệnh parkinson có 51% bệnh nhân trầm cảm, tiếp đến là ung thư (42%), đái tháo đường (27%), tim mạch (21%), HIV (12%)...

Do đó các bác sĩ khuyến cáo, nếu thấy có những dấu hiệu thực thể, khám nhiều nơi mà không tìm thấy bệnh thì nên đi khám chuyên khoa tâm thần.

Trầm cảm có thể chữa khỏi được hoàn toàn nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng phác đồ. Hiện nay các phương pháp điều trị chính là dùng thuốc, liệu pháp tâm lý, shock điện, kích thích từ xuyên sọ.

Đây là rối loạn cần điều trị kéo dài. Hơn 50% bệnh nhân vẫn có nguy cơ tái diễn sau lần 1, tỉ lệ này tăng lên 70% sau lần tái diễn thứ 2 và sau cơn tái diễn lên tới 90%. Do đó người mắc trầm cảm cần sự hỗ trợ từ phía gia đình và cộng đồng với các biện pháp trị liệu tâm lý tích cực.

CHÚ Ý

1/ Khoảng 30% dân số Việt Nam có rối loạn tâm thần, trong đó có 25% mắc trầm cảm, là nguyên nhân khiến 36.000 - 40.000 tự tử mỗi năm.

Viện Sức khoẻ tâm thần, BV Bạch Mai đang điều trị cho nhiều bệnh nhân mắc trầm cảm nặng, muốn tìm đến cái chết.

Trong số đó, có một nam thanh niên tự cuốn dây điện vào cổ tay, cổ chân rồi cắm điện để tự tử. Một nữ bệnh nhân 20 tuổi tự cầm dao cứa cổ, rạch cổ tay.

Một cô gái 21 tuổi là sinh viên tại Hà Nội, sau khi chia tay người yêu cùng áp lực ở trường đã rơi vào trạng thái trầm cảm.

- Khoảng 30% dân số Việt Nam có rối loạn tâm thần, trong đó có 25% mắc trầm cảm, là nguyên nhân khiến 36.000 - 40.000 tự tử mỗi năm.

Viện Sức khoẻ tâm thần, BV Bạch Mai đang điều trị cho nhiều bệnh nhân mắc trầm cảm nặng, muốn tìm đến cái chết.

Trong số đó, có một nam thanh niên tự cuốn dây điện vào cổ tay, cổ chân rồi cắm điện để tự tử. Một nữ bệnh nhân 20 tuổi tự cầm dao cứa cổ, rạch cổ tay.

Một cô gái 21 tuổi là sinh viên tại Hà Nội, sau khi chia tay người yêu cùng áp lực ở trường đã rơi vào trạng thái trầm cảm.
trầm cảm, stress, tâm thần, rối loạn tâm thần
Bác sĩ thăm khám cho một nữ bệnh nhân đang điều trị trầm cảm tại BV Bạch Mai

Từ một cô gái khoẻ mạnh, vui vẻ, nữ sinh viên rơi vào trạng thái chán ăn, mất ngủ liên miên, mỗi đêm chỉ ngủ được 3-4 tiếng. Trong 6 tuần, cô sụt 4kg.

Bệnh nhân thường xuyên cảm thấy mệt mỏi, không muốn đi học, không muốn làm việc gì. Liên tục trong 6 tuần rơi vào trạng thái chán nản, mất ngủ và hay ngồi khóc một mình.

Bệnh nhân này nhiều lần chia sẻ với mẹ về cảm giác cuộc sống không còn ý nghĩa, thường xuyên cáu gắt, giận dữ, nhiều lần nói với mẹ cô muốn chết để không phải đau khổ như hiện tại.

May mắn, cô gái 21 tuổi này được gia đình đưa đến viện trước khi có hành động dẫn đến tự sát.

Ngoài ra còn có trường hợp một cụ ông 79 tuổi phải nhập viện cấp cứu khi không chịu nói năng gì, cơ thể suy nhược, gầy sút 3kg trong 3 tuần.

Trước khi vào viện 3 ngày, cụ ông buồn chán nói về cái chết, khóc nhiều, sau đó im lặng, không chịu ăn hay uống bất cứ thứ gì, kể cả nước để được chết.

Bệnh nhân sau đó đã được bù nước, hồi tỉnh trở lại và đang điều trị theo phác đồ trầm cảm.

Số lượng bệnh nhân trầm cảm tăng chóng mặt

TS Dương Minh Tâm, Trưởng phòng rối loạn liên quan stress, Viện Sức khoẻ tâm thần cho biết, cách đây 15 năm, mỗi ngày cả viện chỉ có 1-2 bệnh nhân đến khám. Hiện con số này lên tới 200, trong đó có khoảng 50 bệnh nhân đến khám và điều trị trầm cảm.

Trong năm qua, Viện khám và điều trị ngoại trú cho hơn 18.000 bệnh nhân mắc trầm cảm (chiếm 30%), điều trị nội trú 446 lượt bệnh nhân.

Bệnh trầm cảm có xu hướng tăng do áp lực cuộc sống tăng lên, stress nhiều, gặp nhiều sang chấn...

Theo TS Tâm, trầm cảm có thể xảy ra ở nhiều lứa tuổi nhưng phổ biến nhất là từ 18-45 tuổi. Phụ nữ có nguy cơ mắc trầm cảm gấp đôi nam giới.
Đa số các trường hợp tự sát do bệnh nhân cảm thấy mình vô dụng, tội lỗi, không xứng đáng sống.

Việc điều trị trầm cảm gặp nhiều khó khăn do phần lớn người bệnh không biết mình bị mắc bệnh nên thường điều trị tại các chuyên khoa khác trước khi đến chuyên khoa tâm thần.

Do vậy, trầm cảm có xu hướng dễ trở thành mạn tính và tái diễn cũng như phục hồi không hoàn toàn giữa các giai đoạn.

Gần 14 triệu người Việt Nam đang mắc các rối loạn tâm thần phổ biến. Gần 1/5 trong số này mắc các rối loạn tâm thần nặng.

2/ Chủ quan với mất ngủ, vào viện tâm thần như chơi

Đây là số liệu được đưa ra tại hội thảo lấy ý kiến hoàn thiện chiến lược quốc gia về sức khỏe tâm thần tại Hà Nội sáng nay.

Theo ông Trần Quý Tường, Phó cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế, rối loạn tâm thần là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến nhất hiện nay, là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật.
Theo nghiên cứu, gần 15% dân số Việt Nam (tương đương gần 14 triệu người) mắc các bệnh về rối loạn tâm thần, trong đó khoảng 3 triệu người mắc rối loạn tâm thần nặng như tâm thần phân liệt, sa sút trí tuệ, chậm phát triển. Con số này vẫn không ngừng tăng.

Nguyên nhân chủ yếu do làm việc suốt ngày đêm, áp lực công việc lớn, căng thẳng, tiêu thụ rượu bia nhiều, cách biệt giàu - nghèo, ly hôn, thất nghiệp...

Tuy nhiên số lượng người bệnh rối loạn tâm thần được chữa trị còn cực kỳ thấp, cứ 10 người chỉ có 2-3 người được điều trị, trong đó điều trị bằng thuốc vẫn là chủ yếu, điều trị tâm lý rất hạn chế. Chưa kể số lượng bác sĩ chuyên khoa tâm thần còn rất ít, cả nước có 850 bác sĩ nhưng chỉ tập trung tại tuyến trung ương và các thành phố lớn.

Bên cạnh đó, do nhận thức hạn chế, người dân vẫn chưa hiểu đúng về sức khỏe tâm thần, đánh đồng tất cả đều là "điên" mà không biết có nhiều rối loạn tâm thần khác như trầm cảm, mất ngủ, lo âu... dẫn đến tình trạng kì thị, phân biệt đối xử

3/ Một nghiên cứu mới đây cho thấy, bệnh nhân tim bị trầm cảm tăng gấp khoảng 2 lần khả năng tử vong trong vòng 10 năm tiếp theo so với những bệnh nhân không gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Các nhà nghiên cứu cho biết, trầm cảm – thường gặp sau chẩn đoán bệnh tim – có vẻ như là một yếu tố dự báo về nguy cơ tử vong lớn hơn so với dạng bệnh tim, hút thuốc lá, tình trạng tiểu đường, thậm chí là độ tuổi.

Tác giả nghiên cứu Heidi May cho biết, mặc dù nghiên cứu này không chứng minh trầm cảm dẫn tới tử vong sớm, song cần liên tục sàng lọc trầm cảm cho bệnh nhân chứ không chỉ sàng lọc sau khi có chẩn đoán bệnh tim.
Nghiên cứu này đã xem xét hơn 24.000 người trưởng thành có chẩn đoán mắc bệnh động mạch vành tại 2 bệnh viện ở Utah (Mỹ). Những người này từng bị đau tim hoặc đau thắt ngực, tuổi trung bình khoảng 64, 90% là người da trắng và 70% là nam giới.

Các nhà nghiên cứu đã theo dõi những bệnh nhân này trong thời gian trung bình là 10 năm. Khoảng 15% có chẩn đoán trầm cảm sau khi bị bệnh tim. So với những bệnh nhân không bị trầm cảm, những bệnh nhân bị trầm cảm thường là nữ, bị tiểu đường và từng có tiền sử mắc trầm cảm.

50% số bệnh nhân bị trầm cảm tử vong trong vòng 10 năm so với 38% bệnh nhân không bị trầm cảm. Sau khi hiệu chỉnh thống kê, nhóm nghiên cứu ước tính rằng trầm cảm có thể làm tăng gần gấp đôi nguy cơ tử vong.

Các kết quả nghiên cứu được trình bày tại hội nghị thường niên của Trường Tim mạch Hoa Kỳ. Nghiên cứu được trình bày tại hội nghị khoa học nên được xem là sơ bộ cho đến khi được đăng trên các tạp chí y học có bình duyệt.

4/ Liệu pháp hiệu ứng tâm lý placebo được đánh giá là góp phần thuyên giảm 40% trong sự thành công của việc trị bệnh trầm cảm.

Theo tổ chức Y tế Thế giới WHO, trung bình mỗi năm có đến 850.000 người chết vì bệnh trầm cảm. Có thể đến năm 2020 căn bệnh này được xếp hạng thứ hai về các căn bệnh nặng.

Điều đáng nói là hiện nay khoảng 121 triệu người mắc bệnh này trên toàn cầu thì chỉ có 25% trong số đó được chữa trị kịp thời và đúng phương pháp.

Trầm cảm là hiện tượng ức chế của các quá trình hoạt động tâm thần với bệnh cảnh lâm sàng gồm các triệu chứng thường gặp như: Nét mặt buồn rầu, ủ rũ, mau mệt mỏi, không muốn làm việc, mất hoặc giảm mọi quan tâm thích thú ngay cả những đam mê thích thú cũ, giảm tập trung chú ý, mất hoặc giảm tự tin, tự đánh giá thấp mình.

Quá trình suy nghĩ chậm chạp, ý tưởng nghèo nàn, tự cho mình có tội, bi quan về tương lai. Một số trường hợp trầm cảm nặng, bệnh nhân có thể có ý nghĩ hoặc hành vi tự sát.

Trong trầm cảm thường có các triệu chứng của cơ thể như mất ngủ (thường là mất ngủ cuối giấc, thức dậy sớm), hồi hộp, đánh trống ngực, mạch nhanh, đau mỏi xương cơ khớp, sút cân, giảm hoạt động tình dục. Bệnh nhân thường có hội chứng lo âu và những cảm giác căng thẳng, bất an, sợ hãi...

Người bệnh rối loạn trầm cảm sẽ dẫn đến gián đoạn học tập và khả năng lao động, rối loạn khả năng thích ứng, dần dần tách rời xã hội, chất lượng cuộc sống bị giảm sút sau mỗi giai đoạn trầm cảm. Bệnh càng trở nên trầm trọng khi 20% số họ trở nên mạn tính.

Người bệnh có nguy cơ tự sát cao khi bị trầm cảm tái diễn. Trầm cảm gia tăng còn thúc đẩy tỷ lệ lạm dụng rượu và ma tuý, không chỉ gây ra những thiệt hại cho cá nhân, rối loạn trầm cảm còn ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống của gia đình và xã hội.

Trong điều trị trầm cảm, liệu pháp hiệu ứng tâm lý placebo được đánh giá là góp phần thuyên giảm 40% trong sự thành công của việc trị bệnh.

Thuật ngữ placebo có trong từ điển y học 1894, để chỉ giả dược giống hệt thuốc thật song không chứa hoạt chất chữa bệnh. Placebo làm người bệnh có niềm tin là dùng “thuốc thật” nên từ 1785 được định nghĩa là thuốc gây niềm tin (make-believe medicine). Sau này placebo còn mở rộng, bao gồm cả những điều tạo niềm tin như uy tín, thái độ tận tình, sự khích lệ của thầy thuốc, gọi chung là hiệu ứng plaebo.

Sự quan tâm, chăm sóc tận tình của thầy thuốc sẽ giúp người bệnh có niềm tin khỏi bệnh, các giả thuyết được đưa ra để lý giải cho phương pháp này là:

Thói quen: Lần trước được điều trị trong môi trường y khoa tốt (thầy thuốc chu đáo tận tụy, thuốc men đầy đủ) nên khỏi bệnh. Lần sau đến lại nơi ấy, người bệnh nhớ lại môi trường y khoa cũ mà mình từng thụ hưởng thì cũng sẽ đỡ bệnh.

Thuyết sinh hóa: Khi dùng placebo, người bệnh đinh ninh nghĩ rằng mình đang được thầy thuốc cho “thuốc thật”, có niềm tin mình được chữa bệnh… thì thần kinh sẽ hoạt động kết hợp với nội tiết tạo ra endorphin nội sinh làm giảm đau, đỡ bệnh.

Thuyết nâng đỡ: Người bệnh ở trong trạng thái căng thẳng về bệnh tật. Cho dùng placebo (khích lệ, hứa hẹn) thì họ đinh ninh rằng mình đang được điều trị với thầy tốt thuốc tốt, cảm giác được nâng đỡ ấy từ thần kinh sẽ khởi động các hoạt động các cơ phận theo hướng giải tỏa căng thẳng, dẫn tới đỡ bệnh.

Dù diễn đạt theo các cách khác nhau nhưng giả thiết trên đều có một quan niệm thống nhất, đó là hiệu ứng placebo là có thật nhưng không phải là do tác động trực tiếp của placebo lên các yếu tố gây bệnh mà do placebo tạo ra niềm tin. Niềm tin đó có từ thần kinh trung ương sẽ tác động làm cho các cơ phận khác hoạt động theo hướng tích cực dẫn tới đỡ bệnh. Tuy nhiên, những lý giải vẫn chỉ là giả thuyết và gây nhiều tranh cãi.
THANK YOU
 


Chuyển nhanh:


Đang xem chủ đề này: 1 Khách

Liên hệ | Gốc Quê | Lên trên | Nội dung | Bản rút gọn | Tin RSS