Đánh giá chủ đề:
  • 0 Votes - 0 Average
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
CON MẮT CÒN LẠI
17-10-2015, 03:25 PM (Được chỉnh sửa: 24-10-2015 06:09 AM bởi dieuquang.)
Bài viết: #1
CON MẮT CÒN LẠI
MỜI BÀ CON NGHE XEM QUA PPS NHỮNG CON MẮT CÒN LẠI CỦA NS TRỊNH CÔNG SƠN,
MÃI SAU NÀY , DQ NHỜ NGHE ĐƯỢC MỘT SỐ BÀI GIẢNG LIÊN QUAN ĐẾN MỘT NÉT ĐẠO TRONG NHẠC TRỊNH VÀ TRONG NHỮNG VẦN THƠ CỦA THI SĨ BÙI GIÁNG, THẤY MỞ RỘNG ĐƯỢC CÁI HỒN THỰC TRONG NHẠC VÀ THƠ CỦA HAI VỊ NÀY.
BÀ CON NHÀ MÌNH NHIỀU VỊ RẤT THÍCH THƠ , NHẠC NHƯNG CHẮC CŨNG CHÚT THOÁNG QUA XEM, NGHE , THƯỞNG THỨC THEO CÁCH BÌNH THƯỜNG, NAY MỜI NGHE VÀ ĐỌC PHẦN SAU PPS NHÉ.


.ppsx  DQ - CON MẮT CÒN LẠI.ppsx (Kích cỡ: 6.82 MB / Tải về: 296)

NHỮNG BÀI SAU DQ, TỔNG HỢP TỪ CÁC NGUỒN WEB PHẬT GIÁO.

CON MẮT CÒN LẠI
Thi sĩ Bùi Giáng xuất khẩu thành thơ, ông sống trong cõi giới riêng ông, trong hư tưởng mông mênh lạ kỳ, nên lời thơ có khi rất bỡ ngỡ xa lạ, khó hiểu. Cố hiểu, ráng hiểu cũng chưa chắc đúng ý. Thôi thì cứ theo cảm nhận mà hiểu.

Đi tu thứ nhất ở chùa,
Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang.

Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.

và trong bài Mắt buồn in ở tập Mưa nguồn năm 1963
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con

Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng, Văn Cao, Nguyễn Tuân là những thiên tài Việt Nam, rất hạp nhau và chơi với nhau, bất chấp tuổi tác chênh lệch. Những ý tưởng gặp nhau, thầm hiểu, im lặng vẫn hiểu. Có những điều Trịnh Công Sơn định nói bằng ca từ thì Bùi Giáng đã nói trước bằng thi ca. Ta có thể nói bài nhạc CON MẮT CÒN LẠI, Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng cùng sáng tác vẫn được.
[Hình: attachment.php?aid=11733]

Ý vô cùng quan trọng, không có ý thì thân và khẩu đâu có hành động!

Con Mắt Còn Lại

Còn hai con mắt khóc người một con.
Còn hai con mắt một con khóc người.
Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi.
Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp.
Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai.
Tình trong hai tay một hôm biến mất.
Con mắt còn lại là con mắt ai.
Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài.
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người.
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ.
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi.
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ
Con mắt còn lại nhìn mây trắng bay
Con mắt còn lại nhìn tôi bùi ngùi.
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người.
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm.
Nhìn em ra đi lòng em xa vắng.
Con mắt còn lại là đêm tối tăm
Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.

Bài con mắt còn lại, gồm 24 câu, chia làm ba khổ.

Khổ một
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi
Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp
Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai
Tình trong hai tay một hôm biến mất
Con mắt còn lại là con mắt ai
Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài
Trong nhà Phật có năm thứ mắt: nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn… Phàm phu chúng sinh đều có nhục nhãn và tuệ nhãn, tuệ nhãn hiển thị, thấu thị nhiều hay ít, thấp hay cao là tùy ở sự tu tập, chuyển hóa khổ đau của mỗi chúng sanh. Ai mà có Định có Tuệ có tu tập nghiêm chỉnh đàng hoàng thì có mắt tuệ (tuệ nhãn) thấy biết hết, dự cảm chuyện tương lai, đoán việc như thần. Tuệ nhãn ở nơi chúng sinh có và sáng từng lúc, lúc nào có tu, có thao thức nghĩ đến vận mệnh của quê hương và đạo pháp, thì lúc đó đôi mắt rực sáng, có nhiều vị lãnh tụ cũng có đôi mắt này. Còn lúc nào vong thân quên lãng, sống say chết mộng thì mắt chỉ còn thấy mờ mờ, một con mà thấy sáng vẫn quý hơn hai con mà mờ. Thôi thì khóc người một con thôi, khóc cả hai con bị dư nước mắt, mà còn phải dự phòng nữa chứ.
Câu một câu hai là nhục nhãn.
Câu ba bốn năm sáu là nhìn bằng mắt tuệ (tuệ nhãn), có tuệ nhãn nên mới biết nhìn lại mình, xếp bằng ngồi quán chiếu “nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp”. “Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai, tình trong hai tay một hôm biến mất“.Thật Ngộ Vô thường. Có khi nào lên cao mãi mà không xuống thấp, có cuộc tình nào mãi ấm nồng mà không phai lạt, cứ ngỡ cứ tưởng chồng mình con mình vợ mình tài sản mình, là mãi mãi thuộc về mình, luôn khư khư nắm chặt trong tay, nhưng đùng một cái một hôm biến mất.
Câu bảy câu tám,trong đau thương mất mát hụt hẫng vô vọng, bỗng lóe lên một vầng sáng, trong vầng sáng đó có một con mắt từ bi nhìn mình, mời gọi mình. Mắt ai ? Phật lấy mắt từ bi (từ nhãn thị chúng sinh) mà nhìn mọi loài chúng sinh. Ngài thương chúng sinh đang chìm trong bể khổ và thở dài. “Con mắt còn lại là con mắt ai, con mắt còn lại nhìn tôi thở dài“.

Khổ hai
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ
Con mắt còn lại nhìn mây trắng bay
Con mắt còn lại nhìn tôi bùi ngùi
Nguyên nhân của khổ đau là từ một mà nhìn thành hai. Tâm ban đầu (Sơ Tâm) con người dễ thương lắm, trong veo không phân biệt người thân kẻ sơ, chưa phân biệt như các bé thơ nên nhìn ai cũng cười, cũng quơ tay đòi ẵm, nhưng đến khi ý thức lớn mạnh, biết phân biệt người lạ kẻ quen thì không còn một nữa, mà đã hóa thành hai. Chân tâm, Phật tánh, bản thể chân như, tự tánh thanh tịnh. Sống với tự tánh thanh tịnh, cái đẹp bên trong, mới biểu hiện cái đẹp bên ngoài. Bởi không sống với vô phân biệt trí nên mới thấy một thành hai, khi thì nhìn em yêu thương, khi thì nhìn em như thú dữ. Bởi sống trong ngã chấp, ngã ái nên sợ mất, sợ mất nên cuồng điên yêu thương, cuồng điên nỗi nhớ.
Yêu mà chân thật thì luôn tỉnh táo, để nhận diện chấp nhận ưu khuyết điểm. Cuồng điên khi yêu, khi tỉnh lại giật mình, sợ hải mong đó chỉ là mộng. Nhớ mà cuồng điên thì khi tỉnh lại chắc gì còn nhớ nữa. Biết tu tâm một chút, biết đời vô thường một chút,biết tìm an trong cái hổn loạn một chút. Như vậy cuồng điên nào chi phối? Bốn câu này là nhìn bằng mắt thịt (nhục nhãn).
Nhận diện niềm đau nỗi khổ, một không thành hai nữa, mà ta là ta mà ta chẳng phải là ta ( tuệ nhãn)

Khổ ba
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm
Nhìn em ra đi lòng em xa vắng
Con mắt còn lại là đêm tối tăm
Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.

Thực tính của cuộc đời vốn là không. Đây không phải là không ngơ, là trống không, mà nhìn sắc thấy có không, nhìn không thấy có sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, tất cả chỉ là nhân duyên hòa hợp giả có giả không.Vượt thoát tất cả mọi ý niệm đối đãi. Nhìn đời là Không, nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng. Tuyệt quá ! Nhìn được như vậy tức là nhìn bằng mắt trí tuệ. Nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng.

Từ hư vô của Tây phương khác với từ Không của Phật giáo Không và hư vô là hai phạm trù khác nhau. Hư vô trong ca từ Trịnh Công Sơn là ám chỉ, còn đó mất đó, nắm trong tay rồi một hôm biến mất, như vậy hư vô đây là vô thường. Đi giữa sa mạc hay đi vào vùng nhiều đồi cát nóng, những ngày nắng gắt, mắt ta thấy có hiện tượng như sóng dợn,lóm đóm lao xao, nhà Phật gọi là hoa đóm, để chỉ cho những hiện tượng mong manh sanh diệt đổi dời của vũ trụ nhân sinh, cứ tưởng thật mà chẳng thật chút nào, Trịnh Công Sơn gọi hoa đóm là bóng nắng. Thấy em là hư vô, là bóng nắng thì em có rời ta thì cũng nhẹ nhàng từ tâm thôi, vì sự đời vốn như vậy ( tuệ nhãn).

Chỉ tiếc vô cùng cho hai câu kết: ”Con mắt còn lại là đêm tối tăm, con mắt còn lại là đêm nồng nàn“.

Dĩ nhiên “mắt” là để nhìn, để “thấy”! Và, nhiều loại con mắt là để thấy nhiều … kiểu khác nhau. Nói khác đi là để nhìn dưới nhiều “quan điểm”, không bám chặt lấy quan điểm của mình là đúng còn người thì sai . “Thấy” như thế nào là một chuyện hệ trọng. Thấy thế nào sẽ dẫn tới nghĩ suy, nói năng, hành động thế đó! Thấy sai sẽ suy nghĩ, hành động sai. Cho nên Quán Thế Âm bồ tát mới có nghìn mắt nghìn tay mà trên mỗi bàn tay đều có một con mắt!
Thấy và biết liên quan chặt chẽ với nhau nhưng không phải là một! Thấy vậy mà không phải vậy, không phải vậy mà vậy! Thấy có thể dẫn đến cái biết, nhưng biết không ở chỗ cái thấy. Bởi thấy do mắt còn biết thì do… “não”! Thấy và biết có khi xa lơ xa lắc dù cũng căn đó cũng trần đó! Vậy mới có xung đột, mười người mười ý, mới có “điên đảo mộng tưởng”! Biết rộng dễ thấy rộng , nhìn xa trông rộng, biết ít dễ thấy hẹp, thiên kiến, thiển cận.

Trong Bát chánh đạo thì Chánh kiến ở vị trí số một! “Kiến” mà không chánh thì dễ lệch lạc! Chánh kiến rồi mới có chánh tư duy! Không thì cứ loay hoay không lối thoát hoặc hý luận chẳng tới đâu! Mắt thịt chỉ là một cấu trúc của “tứ đại” giúp ta thấy – mà không giúp ta biết. ! Mắt thịt không có lỗi! Căn trần gặp nhau tạo ra “tướng” thì cái tướng cũng không có lỗi! Chính cái tâm ta nhiễu sự, “dán” vào cái tướng đó mới thành cái “tưởng”, mới sinh sự. Mà sinh sự thì sự sinh, cho ra cái tâm “điên đảo mộng tưởng”.

Tuệ nhãn là con mắt thứ ba, con mắt bất nhị, con mắt nhìn rõ chân không mà diệu hữu, vô thường, vô ngã. Tuệ nhãn có khi là đủ để “giải thoát”. Giải thoát cho mình và giải thoát cho người. Đủ để dừng chân, đủ để quay đầu lại. Đủ để vượt qua “bờ bên kia”. Tủm tỉm cười một mình. Ung dung. Tự tại.


File đính kèm Thumbnail(s)
   
THANK YOU
[-] dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này:
baothai (18-10-2015 03:55 AM)
17-10-2015, 05:01 PM
Bài viết: #2
RE: CON MẮT CÒN LẠI
Sinh thời, người ta nói hai người chơi thân với nhau cũng không hẳn đúng, bởi lẽ mỗi người một tính cách, mặc dù có thời gian nhà hai người ở gần chợ Trưong Minh Giảng, Sài Gòn

. Thi sĩ Bùi Giáng thì ngông nghênh, lãng du và toả sáng bất cứ hoàn cảnh nào bằng thơ ca, còn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại dịu dàng, trầm buồn và trĩu nặng với sự cô đơn.
Thơ Bùi Giáng luôn phớt tỉnh sự đời, suy tư chông chênh với ý tứ bất ngờ như tia chớp. Còn nhạc của Trịnh da diết nhưng không kém phần bảng lảng trong cõi triết luận vô thường.

Mặc dù ngoài đời hai người ít để lại những kỷ niệm sinh hoạt hay giao lưu thân thiết đến mức tạo nên giai thoại. Thậm chí, nhiều năm trước khi mất, Bùi Giáng không còn có dịp lui tới gặp gỡ, trò chuyện với Trịnh công Sơn vì những sự cố không đáng có, nhưng hai người lại luôn gần gũi nhau về những nỗi niềm nhân sinh và luôn chia sẻ cùng nhau về cái sự vô thường của ý niệm giác ngộ về đời, về đạo của phật giáo. Những câu hát của Trịnh tựa như: “Tình không xa nhưng không thật gần; Không xa đời và cũng không xa một người; Một phố hồng và một phố hư không... nghe mà sao gần gũi với cảm xúc của thi sĩ họ Bùi kia với những câu thơ đại loại như: “Đã đi đã đến cuối trời- Đã về như vẫn muôn đời đã đi; Xin chào nhau giữa con đường Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.

Những câu chuyện của hai người đều được ghi lại bằng dấu ấn thơ ca, tựa như sự đùa cợt, giao hoà và tâm đắc cùng nhau. Bùi Giáng đã từng viết những câu thơ tặng Trịnh Công Sơn:
Anh Sơn vô tận bấy chầy
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua
Niềm thống khổ đứt ruột rà
Còn chăng? Chỉ một ấy là là chi

Hoặc lại có lúc ông còn trêu Trịnh Công Sơn:
Công Sơn Trịnh trọng phiêu bồng
Thưa rằng thơ nhạc có ngần ấy thôi

Trịnh Công Sơn đối đáp không nhanh nên khó có thể ứng tác, nhưng ông lại bị nhiễm cái nét lạ trong thơ Bùi Giáng để nạp năng lượng cho ca khúc của mình. Nhưng thực ra có sự giao thoa tự nhiên giữa ca khúc và thơ của Bùi Giáng, như trời ban cho vậy, chứ không hẳn là Trịnh chỉ chăm chút mượn câu thơ nào đó rõ rệt.
Vì thế có người dẫn chứng rất thú vị ở ca khúcMỗi ngày tôi chọn một niềm vui Trịnh Công Sơn có lời hát như:
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười.
Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy
để mắt em cười tựa lá bay

Thì nhà thơ Bùi Giáng cũng có những câu thơ giầu nhạc điệu tương tự trong cấu trúc của bài Nhìn thấy”:
Mỗi sáng tôi nhìn mắt trời mọc trong mây,
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới

Có người còn dẫn hai cấu khá điển hình mà Trịnh Công Sơn đã mượn ý thơ của Bùi Giáng, đó là lời trong bài hát Em đi bỏ lại con đường”:
Em đi bỏ lại con đường
Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em

Nhưng rõ rệt nhất Trịnh Công Sơn đã lấy nguyên câu thơ Còn hai con mắt khóc người một con trong bài thơ Mắt Buồn của thi sĩ Bùi Giáng, để viết ca khúc Con mắt còn lại năm 1992. Mặc dù, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không đề sáng tác theo ý thơ Bùi Giáng, nhưng vẫn dùng nguyên câu Còn hai con mắt khóc người một con làm nút mở cho những lời hát rất cuốn hút người nghe. Tuy chỉ có một câu thơ dẫn, nhưng hầu như phần lời đều đậm đặc chất trừu tượng của thi sĩ Bùi Giáng. Đó là cảm xúc đối chọi được nén chặt trong kịch tính và ý tứ trùng khít qua đôi hình tượng Đôi mắt đầy ám ảnh.
Dường như khổ thơ thứ hai của Bùi Giáng trong bài thơ đã được Hoá hết trong ba phần lời ca khúc của Trịnh Công Sơn. Ta có thể đọc lại khổ thơ đó:
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bấy giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con

Đồng thời qua lời ca khúc ta cũng thấy sự sáng tạo của Trịnh Công Sơn rất đặc sắc với những câu hát giầu chất bi kịch của tình yêu:
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ

Có điều thú vị, thi sĩ Bùi Giáng không hề có ý tranh giành về chuyện bản quyền với người bạn của mình, bởi có người nêu thắc mắc vì sao nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không đề sáng tác theo ý thơ của ông. Có lẽ theo mọi người suy luận rằng, với tính cách bất cần của thi sĩ họ Bùi thì cũng chắng coi đó là sự xúc phạm. Vả lại hai người đã ít gặp nhau từ năm 1988, mãi cho đến năm 1994, hai người mới có dịp giao lưu lại vì công việc, mà cũng chỉ đối thoại và hỏi thăm nhau bằng thư. Và hơn nữa, bài thơ Mắt buồn của ông đã quá nổi tiếng, vậy thêm một lần đề tên mình lên bản nhạc thì cũng chỉ là thêm được tiền rượu mà thôi
Điều còn lại là thành tựu của cả hai tác phẩm thơ và nhạc đều trở nên bất hủ.

Hai người còn giao lưu với nhau, sáu năm sau cho đến khi thi sĩ Bùi Giáng qua đời, năm 1998. Đến viếng cố nhân, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong sổ tang những vần thơ, tại chùa Vĩnh Nghiêm, đúng với giọng điệu của người bạn; ngỡ như còn đang uống rượu cùng nhau:
“Bùi Giang Bàng Dúi Búi Giàng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hoá ra thi thể là ngàn hư vô
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô hạn ứ ừ viển vông
Trịnh Công Sơn-1998”

Đúng là nỗi đau chỉ có thể khóc trong lòng và mọi nỗi niềm của cảm xúc với thi nhân ở đâu đó cõi hư vô, mà nhạc sĩ khó diễn tả thành lời. Sau này ông còn viết những câu thơ, để kỷ niệm một năm ngày mất của cố thi sĩ, với những lời hết sức buồn:
“Thi nhân vĩnh viễn chân trời ấy
Đảo điên điên đảo bụi trần gian
Từ ấy tôi buồn như cỏ dại

Ngay sau khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ra về, nhà điêu khắc Trương Đình Quế ở Đồng Nai đã tạc hai bức tượng lớn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và thi sĩ Bùi Giáng. Hai tác phẩm điêu khắc này đã toát lên cái thần của hai người và đem lại sự đồng điệu cho người thưởng ngoạn. Bức tượng toàn thân nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ở tư thế ngồi vắt chân chữ Ngũ, một tay chống cằm, một tay cầm đàn Guitar chìm đắm trong suy tư. Còn bên cạnh là bức tượng nhà thơ Bùi Giáng, nom rất sinh động khác với nét tĩnh lặng của tượng Trịnh; người choàng áo mưa, đeo hồ lô rượu bên hông, tay chóng gậy, râu tóc phất phơ trong gió, cùng một chú chó nhỏ đu trên vai ông thật ngộ nghĩnh; và thêm nữa là một con mèo và một con gà trống đi cùng. Cả hai đều hiện lên đúng tính cách rất khác biệt nhưng lại đầy biểu cảm. Sau hai mẫu tượng này được đúc đồng và đưa về đặt yên vị tại bờ sông Rạch Chiếc, ở Q 2, TPHCM.

Nếu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thành công trong một thời gian dài bởi lẽ những cảm xúc và suy tư đậm tính triết luận gần gũi với đạo phật, chia sẻ và bày tỏ chân thành với người đời, thì ở thơ Bùi Giáng thể hiện sâu sắc một tinh thần tiêu dao, sắc sắc không không của cõi niết bàn. Người đời tặng cho ông danh hiệu thi sĩ Bồ tát vì lẽ đã cảm thụ và yêu thơ ông như thế.
Do vậy sự hội tụ trong thi pháp còn kỳ lạ hơn cả tình bạn của hai ông. Tình bạn ấy khó gọi tên bởi nó lúc xa lúc gần, lúc mong manh, khi lại chói loà bởi sự hoà nhập về nhạc điệu, khúc thức, hình ảnh, và ngôn ngữ lẫn tư duy ở cõi thiền vô vi lan toả trong vũ trụ bao la. Đó chính là sự giao cảm vô thường của những kỳ nhân mang hai cái tên: Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn.
THANK YOU
[-] dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này:
baothai (18-10-2015 03:55 AM)
17-10-2015, 09:49 PM
Bài viết: #3
RE: CON MẮT CÒN LẠI
NHỮNG PHÂN TÍCH VỀ NHẠC TRỊNH ,DQ THU THẬP TỪ CÁC BÀI VIẾT TRANG WEB PG

Trịnh Công Sơn có viết: "Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được".

Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu kinh...

Đạo Phật với Trịnh Công Sơn là hơi thở là triết học làm cho con người yêu đời hơn chứ không phải là lãng quên sự sống.

Đạo Phật đến với Ông qua nếp sống gia đình, và rồi đi vào âm nhạc của ông ngày càng sâu sắc hơn qua sự trải nghiệm thăng trầm giữa cuộc đời này.

Trịnh Công Sơn có viết: "Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được".

Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả.

Theo Kinh Kim Cương, Tất cả các pháp hữu vi là “như sương mai, như ánh chớp”. Đây là một ý niệm mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đi, nhắc lại trong nhiều lời ca của mình. Giống như con chim ở đậu cành tre và một con cá... trong khe nước nguồn, không ai trong chúng ta là những người định cư vĩnh viễn, tất cả đều là những người ở trọ trần gian này. Trong khi tạm cư ở chốn trần gian này chúng ta tìm chỗ ẩn náu trong tình yêu, nhưng rồi tình yêu cũng mất đi.

Tình yêu như tất cả mọi sự khác đều vô thường như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài Đóa hoa vô thường và nhiều bài ca khác. Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn là những lời tuyên bố siêu hình rằng những đổ vỡ tình yêu không phải là những chông gai nho nhỏ trên con đường đời đẹp đẽ vô song. Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn, như Hoàng Phủ Ngọc Tường nói, là những “bài kinh cầu bên vực thẳm”. Các bài ca này là những lời nhắc nhở cho chúng ta về lẽ vô thường.

Một đề tài Phật giáo khác trong nhạc Trịnh Công Sơn là thuyết luân hồi. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi, ông hát trong Cát bụi. Hay Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô,trong Rừng xưa đã khép. Trong các ca khúc của mình Trịnh Công Sơn có vẻ đồng ý với đạo Phật rằng “Hiện tại là hình bóng của quá khứ và tương lai là hình bóng của hiện tại”.

Trịnh Công Sơn cũng tỏ ra chấp nhận thuyết luân hồi của nhà Phật trong những câu mà Trịnh Công Sơn đã làm nhòa nhạt biên giới giữa đi và về, như trong bài Phôi pha: Có những ai xa đời quay về lại/ Về lại nơi cuối trời. Nếu chết là để đi đến tái sinh thì khi ta ra đi nghĩa là ta trở lại. Nhìn sống và chết cũng như nhìn nước chảy trên sông và tự hỏi nước đang ra đi hay nước đang trở về. Đó là ý của Trịnh Công Sơn trong Gần như niềm tuyệt vọng: Những ngàn xưa trôi đến bây giờ/ Sông ra đi hay mới bước về.

Theo đạo Phật không có cái ta trường cửu nhưng mà có một chút gì trong cái ta đã mất được tiếp nối trong cái ta tái sinh. Quá trình này thường được so sánh như khi ta thắp một cây nến từ một cây nến khác, có cái ra đi và cũng có cái trở lại, một cõi đi về như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài ca cùng nhan đề.

Một ảnh hưởng khác của Phật giáo trong ca khúc của Trịnh Công Sơn là sự mập mờ và siêu lý luận của các câu văn. Nhạc, lẽ dĩ nhiên là tiếng nói của con tim không phải là của lý trí nhưng sự xác định này cũng chưa đủ dể giải thích tại sao Trịnh Công Sơn có vẻ như không muốn làm cho lời ca rõ ràng. Đây là ảnh hưởng của Phật giáo, rằng người ta không thể chỉ ngồi mà lý luận để đi đến một sự bình an cho tâm hồn, rằng ý niệm giác ngộ vượt qua biên giới của ngôn ngữ và lý luận.

Cái mập mờ danh tiếng của Trịnh Công Sơn là do sự phá bỏ biên giới giữa các điều thường xem là khác biệt. Trịnh Công Sơn hay dùng lối văn đối nghịch, một nghệ thuật ngôn ngữ hay dùng để nhấn mạnh sự khác nhau của hai điều, nhưng ngược lại, Trịnh Công Sơn hay đem đối nghịch làm trùng hợp như trong các câu này: Tình không xa nhưng không thật gần; Không xa đời và cũng không xa một người; Một phố hồng một phố hư không.

Trịnh Công Sơn giống như một nhà thiền sư phủ nhận rằng tuyết thì trắng, quạ thì đen, với mục đích nói lên rằng muốn giác ngộ thì phải tránh xa cái đối lập giữa “có” và “không” để thành một tổng thể hài hòa. Lời ca của Trịnh Công Sơn giống như các công án trong Phật giáo, chẳng hạn như công án nổi tiếng nói về lắng nghe tiếng vỗ của một bàn tay, và cũng giống như công án, bài hát của Trịnh Công Sơn không thể giải thích được bằng đầu óc.

Khi nói về triết lý trong nhạc Trịnh Công Sơn chúng ta cũng cần nói tới ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh nữa. Các bạn thân của Trịnh Công Sơn xác nhận rằng, ông cũng như một số đông các nhà trí thức miền Nam vào cuối thập niên năm mươi và đầu thập niên sáu mươi, rất bị lôi cuốn bởi chủ nghĩa hiện sinh.

Các bạn của Trịnh Công Sơn bảo rằng ông rất ham đọc sách của Camus về huyền thoại Sisyphus. Trịnh Công Sơn rất thích các phim trong đó có tài tử James Dean đóng vai của một người lưu lạc cô đơn. Hình ảnh chàng cô đơn này trong nhiều bài của Trịnh Công Sơn trong đó có bài Dã tràng ca. Trong bài này Trịnh Công Sơn muốn so sánh mình với Sisyphus, qua một hình ảnh đã được Việt Nam hóa là con dã tràng suốt ngày “xe cát biển đông” trong Nghe thân lưu đày.

Trịnh Công Sơn quả thật đã bị lôi kéo từ hai dòng lực tù đày và quê nhà. Nhiều đêm muốn đi về con phố xa/ Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà, ông đã hát trong Lời thiên thu gọi. Nhưng vì đã được uốn nắn trong một nền văn hóa mà trong đó tình yêu quê nhà đóng một vai trò rất mạnh, Trịnh Công Sơn đã không do dự chọn quê nhà. Ông đã hát Chân đi xa trái tim bên nhà, trong Có nghe đời nghiêng và Tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá/ Góc phố nào cũng thấy quê nhà trong Tình yêu tìm thấy.

Tù đày theo Trịnh Công Sơn không phải là sự nổi loạn hiện sinh mà là sự nhìn nhận của một người con Phật trước nỗi khổ và tính cách tạm bợ của cuộc đời: Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây Trịnh Công Sơn hỏi trong Phúc âm buồn. Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này.

Hiện sinh khuyến khích cá nhân đứng lên một mình để chống lại xã hội và văn hóa. Phật giáo, ngược lại, dạy thuyết vô ngã, dạy rằng không có gì khác biệt giữa ta và tha nhân, rằng mọi sự mọi việc trên đời đều hỗ tương ảnh hưởng vào nhau. Trịnh Công Sơn có ý nói đến thuyết vô ngã trong các bài ca của ông. Ông có nói đến “phụ người” như trong bài Ru em nhưng cái buồn của ông thật ra cũng là cái buồn của nhân thế. Yêu em yêu thêm tình phụ / Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ . “Từ bi” có nghĩa là tâm từ (maitri) và tâm bi (karuna), hai đức hạnh mà theo Phật giáo mình nên tu dưỡng.

Lúc mới bắt đầu sự nghiệp, Trịnh Công Sơn cũng như nhiều thanh niên trí thức khác tại miền Nam, thích bàn luận về thuyết hiện sinh. Triết lý nói chung và thuyết hiện sinh nói riêng hồi đó là một đề tài rất phổ thông trong giới trẻ. Các bài hát đầu của Trịnh Công Sơn đã đáp ứng được nguyên vọng này của giới trí thức miền Nam. Phật giáo và hiện sinh quả thật có gần nhau ở một vài điểm. Cả hai đều tin rằng con người phải đối diện với cái chết và với ý niệm hư vô trước khi có thể thực sự sống một đời sống đích thực.

Trịnh Công Sơn lúc mới vào nghề nổi tiếng vì đã “chịu chơi” với thuyết hiện sinh nhưng theo tôi Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhạc của mình dựa trên các đề tài của Phật giáo. Nếu hồi đó ít ai để ý tới cái tính cách Phật giáo trong các bài của ông, có thể là vì Phật giáo và hiện sinh gặp nhau ở một vài điểm và người ta chỉ để ý đến khía cạnh hiện sinh mà thôi. Tuy nhiên lý do chính vì sao Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục thành công trong một thời rất dài là vì những ưu tư có tính cách rất Phật Trịnh Công Sơn đã gửi gắm trong lời ca của mình.

Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu kinh. Nhạc Trịnh Công Sơn khó hiểu nhưng lời ca của ông có khả năng xoa dịu những tâm hồn bị dao động.

( dựa theo :triet-ly-nhe-nhang-trong-am-nhac-cua-trinh-cong-son.)
THANK YOU
[-] dieuquang được 1 thành viên cám ơn cho post này:
baothai (18-10-2015 03:56 AM)
18-10-2015, 03:38 PM
Bài viết: #4
RE: CON MẮT CÒN LẠI
THI SĨ BÙI GIÁNG

BÙI GIÁNG NGƯỜI ĐIÊN HAY NHÀ THƠ
(Tham luận của GS.TS Huỳnh Như Phương)

[Hình: attachment.php?aid=11745]

Người và thơ Bùi Giáng là sự kết hợp giữa đất đai nguyên sơ, hoang dã và nhịp đời phố thị. Tuổi thơ ông trải qua một vùng thiên nhiên hào phóng ruộng đồng, non nước, cỏ cây dọc sông Thu Bồn, dưới chân núi Cà Tang.
Thơ Bùi Giáng hóa kiếp và cho đầu thai để tái sinh cả những cánh bướm, cánh chuồn chuồn, con kiến, con vi trùng, sâu bọ cùng hoa hoang cỏ dại qua ngôn ngữ hiện đại.

Ông cũng sớm nhập vào cuộc sống đô thị, bắt đầu từ Hội An, Huế, rồi Sài Gòn:
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Bùi Giáng như một cái cây bị bứng khỏi phù sa Thu Bồn, vất giữa đất Sài Gòn, tưởng thung thổ lạ lẫm mà vẫn hút được dưỡng chất phồn hoa để tồn tại.

Ông vừa lạc lõng giữa đô thành lại vừa muốn là một tế bào - tuy là tế bào dị thể - của nó. Thơ ông không dửng dưng với “những chiều hôm phố thị”, “những đèn khuya phố thị”. Có lúc ông tự trách mình
Bây giờ tôi đã quên xưa
Sài Gòn cám dỗ tôi chưa chịu về.

Ðiều kỳ diệu là Bùi Giáng ngao du sơn thủy mà vẫn như trụ chân một chỗ. Sau 34 năm ông mới trở lại quê nhà, nhưng thật ra ông đã có bao chuyến về tâm thức, đúng hơn, chân ông đi xa mà tâm ông còn ở lại:
Hỏi rằng: người ở quê đâu?
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà.

TRÍ GIẢ & HIỀN GIẢ

Trong thế giới sáng tạo của Bùi Giáng, gắn liền với kết hợp Quê - Phố là kết hợp giữa cổ xưa và hiện đại, Ðông phương và Tây phương. Từ một làng quê xứ Quảng, giã từ bầy dê từng được ông choàng hoa và đặt tên, Bùi Giáng và những trang từ điển của ông mở lối lên thành phố và đi ra nhân loại.

Rồi ra Trung Niên Thi Sĩ không chỉ thân thiết với Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản Ðà...; mà còn làm quen với những tâm hồn xứ lạ của Martin Heidegger, Saint-Exupéry, Gérard de Nerval, André Gide, Albert Camus... Ông chơi với cái cổ điển nhất cũng hết mình như chơi với cái tân kỳ nhất.

Ông yêu Thúy Vân trong vẻ đẹp cổ điển nhưng cũng tụng ca Thúy Kiều trên nền nhạc hiện sinh. Nhưng dù là truyền thống hay cách tân, Bùi Giáng vẫn hướng về những giá trị vĩnh cửu. Với ông, cái tĩnh tại uy nghi trường tồn như núi Ngự muôn đời bên bờ sông Hương là đẹp, đồng thời cái biến dịch muôn sắc huy hoàng cũng là đẹp, miễn là nó được vĩnh cửu hóa bằng nghệ thuật.

Nếu làm một thống kê từ vựng trong thơ Bùi Giáng, sẽ thấy bảng pha màu ngôn ngữ của ông đa dạng biết bao: những từ ngữ cổ kính, nghiêm trang đan kết với những từ ngữ tân thời, nghịch ngợm.

Ðể dùng cách nói thời thượng hiện nay, ông nhà quê Bùi Giáng là người “mở cửa”, “hội nhập” sớm hơn ai hết. Việc ông giỏi chữ Hán, tiếng Pháp thì không khó hiểu.

Nhưng chỉ mười năm ở Sài Gòn, không qua trường lớp nào, mà ông thông thạo tiếng Anh, có thể đọc Shakespeare trong nguyên tác, và am hiểu tiếng Ðức một cách chuẩn xác, sâu sắc, khi đọc, dịch, trích dẫn Friedrich Hölderlin, Martin Heidegger, như sự xác nhận qua kiểm chứng trong thực tế của nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, thì quả là một năng lực ngôn ngữ thâm hậu.

Một đối cực khác được kết hợp trong tác phẩm và con người Bùi Giáng là sách vở, nhà trường trang nghiêm với cuộc đời nắng gió, bụi bặm, xô bồ.
Ðó cũng là kết hợp giữa quy cách và phá cách. Xuất thân Bùi Giáng là nhà giáo, ông viết những lời trân trọng về các thầy giáo cũ của mình.

Ông vào trường thi, thi rớt, phải thi lại để có tấm bằng. Nhưng ông cũng sẵn sàng bỏ trường mà đi khi thất vọng về nó. Khi viết sách giáo khoa, ông viết mạch lạc, khúc chiết. Khi sáng tác, viết khảo luận và dịch thuật, ông để dòng ý thức của mình lôi ngòi bút đi miên man bất tận.

Sách vở giúp Bùi Giáng trở thành trí giả; cuộc đời và số phận biến ông thành hiền giả. Người trí giả phải chịu lép vế trước người hiền giả trong ông. Người và văn ông không để cho những chuẩn mực câu thúc, ý văn ông tràn ra ngoài những ranh giới của lý trí.

Tư tưởng ông đi theo đường dây riêng biệt của nó, từ Nerval đến Shakespeare, từ Shakespeare đến Nguyễn Du, từ Nguyễn Du đến Gide, rồi lại từ Gide đến Saint-Exupéry... Qua cái bề ngoài phi logic, văn bản của ông thách đố người đọc đi tìm sự mạch lạc nội tại của nó.

NGƯỜI NGHỊCH CHỬ

Về mặt tâm lý sáng tạo và chức năng biểu hiện của văn bản, tác phẩm Bùi Giáng là sự pha trộn, nhập nhòa giữa thực và mộng, giữa tỉnh và mê. Thực và mộng, tỉnh và mê không có ranh giới rõ ràng mà thực hòa trong mộng, tỉnh hòa trong mê và ngược lại. Có những trang thơ, trang văn Bùi Giáng viết như lên đồng, như viết tự động, viết trong giấc thụy du.

Theo lời kể của người thân, bệnh án Bùi Giáng có ghi ông mắc bệnh “tâm thần phân liệt dạng sáng tạo chữ”. Ðiên là thoát khỏi thế giới thực tại để đi vào một thế giới huyễn ảo của tâm hồn. Nói cách khác, điên là lìa xa chuẩn mực của người, không còn bị gò bó, vướng bận.

Từ khi được/ bị xem là điên, Bùi Giáng thong dong đi tiếp con đường của mình, không phải chiều lụy gia đình, xã hội; không ai và không điều gì có thể níu kéo, làm phiền ông nữa.

Ông có thể nhập thân vào thi giới của mình, một thi giới mang ít nhiều ảnh tượng của hiện thực nhưng lại do chính ông tái tạo và chế biến. Có thể nói ông là đấng toàn năng, là hoàng đế trong thế giới của riêng ông.

Lao động nghệ thuật của Bùi Giáng là sự tương tác giữa nghĩ, viết và chơi. Có lẽ ông không phải là “phu chữ”, như cách nói của Lê Ðạt, mà là “người nghịch chữ”.
Ngay trong khi nghĩ, ông đã nghịch ngợm những từ ngữ và khi viết ra thì thực sự là ông bày trò chơi trên trang giấy. Bao vấn đề suy tư triết học, tư tưởng văn học hóc búa, rối rắm, ông diễn đạt tuy rườm rà mà đọc vẫn thấy vui, nhiều khi ta chưa hiểu hết ý mà không thấy mệt óc.

Ông là bậc kế tục thượng thừa những trò chơi chữ, giễu nhại... của văn hóa dân gian, của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tú Quỳ... và khai thác một cách mạnh mẽ, cuồng nhiệt nhất. Ít thấy trong văn Bùi Giáng vẻ nghiêm nghị, cau có của người tin rằng mình đang nói những điều quan trọng hay đang phát ngôn cho chân lý.
Có thể nói Bùi Giáng là thứ quả mà cây văn chương chỉ kết được một lần. Bùi Giáng phơi mình giữa nắng gió cuộc đời, rong chơi bất tận giữa đám đông mà vẫn là bí ẩn trước mắt thiên hạ, thách thức mọi suy đoán, lý giải. Ai ở Sài Gòn những năm 70, 80, 90 thế kỷ trước mà không một lần gặp Trung Niên Thi Sĩ.


File đính kèm Thumbnail(s)
   
THANK YOU
18-10-2015, 08:40 PM
Bài viết: #5
RE: CON MẮT CÒN LẠI
TRÍCH TỪ BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ HẠNH CHI

Cái hình ảnh bị cho là một ông già điên, lang thang đầu đường xó chợ trước tháng 4/75, ngửa cổ ngâm thơ, vung tay ca hát, không xa lạ gì với đám trẻ trong làng, ngoài phố. Nhưng với người lớn, nhất là những người trong giới văn học nghệ thuật thì Bùi Giáng có điên không?
Ngót bốn mươi năm, quá nhiều giấy mực viết về người điên tài hoa này rồi, và hình như càng viết lại càng thấy mình mới thật điên trong cái tỉnh, vì có vận dụng bao nhiêu cái tỉnh cũng chẳng hiểu phần nào cái điên trung niên thi sĩ này!

Người điên, cái bóng cũng điên
Người khùng, cái mộng oan khiên cũng khùng


“Ngó chân, ngón thiếu ngón thừa
Còn bao nhiêu bước, duỗi vừa cuộc chơi?

Đúng là cụ Bùi Giáng mới thả được chữ “duỗi” tuyệt hảo vào cái khí phách phiêu bồng thế này.

“Tôi cười, tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc, có ngờ chi không?


Không ngờ chi cả! Đứng trước gương, hình hài vật lý sẽ hiện trung thực 100%, nhưng chỉ là bóng của hình “Người điên, cái bóng cũng điên” Bùi Giáng đứng trước gương, thấy một ông già râu tóc bù xù, áo quần tơi tả thì đó là cái bóng của người điên! Phàm những gì không theo ước lệ người đời đặt ra thì bị cho là điên? A ha!

Nhưng những gì bên trong cái bóng, không hiện ra trong gương là chi? Ai thấy được cái đó? Ai thấy được những oan trái, nhân quả, luân hồi, vay trả? Ai thấy được người này có thể là cha, người kia có thể là mẹ từ vô lượng kiếp nào?
Nếu nhìn hình hài người điên Bùi Giáng qua gương thì thấy “cái bóng cũng điên” nhưng nhìn tâm Bùi Giáng “Người khùng, cái mộng oan khiên cũng khùng”, lại chẳng thấy điên khùng chút nào! Điên khùng mà biết tới oan khiên ư? Thử hỏi bao người tỉnh, e rằng họ đang lao vào “mộng-oan-khiên” mà cứ tưởng “thực-hạnh-phúc”

Một người làm thơ dễ và nhanh, như thò tay lấy chữ trong túi ra, đã tự phác họa mình:
“Điên cuồng mà tưởng nên thơ
Cuồng điên mà tưởng làm thơ như thần!”


Điều này, chắc cư sỹ Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm năm xưa biết rõ hơn ai hết. Ông rất trân quý Bùi Giáng, nên gặp đâu là nói:
- Có gì mới, đưa tôi in đi!
Vừa nói buổi sáng, buổi chiều đã thấy nhà thơ lững thững ghé quán sách, móc trong bị ra một xấp dầy, ném huỵch xuống bàn. Thanh Tuệ sửng sốt:
- Viết hồi nào thế?
- Thì viết lúc ông bảo viết đó. Muốn nữa không?
Ông Thanh Tuệ chia sẻ với thân hữu là đã từng không in kịp thơ Bùi Giáng, vì cứ hỏi thì thơ tuôn ra ngay!

Mà có phải chỉ là thơ đâu! Viết và nói về những triết gia lừng danh Âu, Á, từ Nietzsche, Heidegger, Sartre, Camus đến Khổng Tử, Lão Tử, đối với Bùi Giáng cũng chỉ đơn giản như đang giỡn thôi; nhưng giới văn học nghệ thuật cùng thời và cả hàng hậu bối, khi lần giở những trang tiểu luận đại luận này, đều kinh hồn bạt vía vì những nhận định sắc bén và cực kỳ mới mẻ.

Tài hoa như thế mà cứ bị gán là ông già điên, nên mới có những câu ỡm ờ cho vui vẻ cả làng:
“Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên? Là một, hai, ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm”


Ai người tỉnh, xin giải dùm mấy câu trên, xem có thấy rưng rưng trước tấm lòng của một người sanh lầm thế kỷ hay không. Rồi lời này mới thấm thía hơn nữa:
“Rong chơi râu tóc bạc phơ
Còn nghe đắm đuối vần thơ yêu người”


Ngàn trang giấy tỏ bày nhân bản cũng chỉ đến thế mà thôi. Tình yêu đời, yêu người, xót xa cùng cực, đồng thời cũng cô đơn cùng cực khi đã biết chẳng tìm đâu tri kỷ:
“Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên mầu ấy không?
Ta đi, còn gởi đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù!


Giữa những ngày tháng ly tan, người người hoảng loạn chạy xa đất mẹ, là những vết đau cắt da xẻ thịt trong cơn ác mộng, thấy mình lạc lõng ngay giữa quê nhà. Người điên nào trong cơn đau ấy mà khóc lên được bằng nước mắt của cả biển đông, chỉ qua hai câu thơ tê tái này không:
“Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là Chiêm Bao!


Chắc hẳn, trong cô đơn cùng cực, cũng có lần thi nhân chắp tay hướng về một giáo pháp đã hứa khả rằng, mỗi chúng sanh đều có một viên minh châu như nhau. Ánh sáng viên minh châu trong Người-Điên từng rực rỡ tuyệt vời Bát Nhã thế này:
“Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu tiên
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng, tới phiền muộn sau”


Thế kỷ này, tìm đâu thêm một người điên cực kỳ thơ mộng như tiên sinh Bùi Giáng!
Thế nên đành:
Thưa em, rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình!”


Hạnh Chi [Tưởng niệm Thi Sỹ Bùi Giáng (17/12/1926 – 7/10/1998)]
THANK YOU
 


Chuyển nhanh:


Đang xem chủ đề này: 1 Khách

Liên hệ | Gốc Quê | Lên trên | Nội dung | Bản rút gọn | Tin RSS