QUAN THẾ ÂM Bồ Tát qua Thơ ca
|
26-03-2017, 08:48 PM
Bài viết: #1
|
|||
|
|||
QUAN THẾ ÂM Bồ Tát qua Thơ ca
Bồ Tát Quan Âm
Qua Thơ Ca Việt Nam Đào Nguyên --- o0o --- Từ bi là một trong những đặc điểm tiêu biểu của đạo Phật. Trong sự gắn bó với đời sống của dân tộc Việt Nam cũng như với thi ca, một phần tính chất từ bi của đạo Phật đã được hình tượng hóa với hình ảnh Đức Phật Quan Âm, cụ thể hơn là Phật Bà Quan Âm. Đức Bồ Tát Quan Thế Âm đã được nói đến trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn, đó là một nam nhân; trong khi hình ảnh được thờ phụng nơi chùa chiền Việt Nam, được truyền tụng trong dân gian và thể hiện qua thi ca, lại là một Phật Bà. Về điểm này, Nguyễn Lang viết: Bồ Tát Quan Thế Âm được mô tả trong phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa là một nam nhân. Sang Tây Tạng, Trung Hoa và Việt Nam, Quan Thế Âm biến thành nữ nhân thân, trong lúc đó Phật tử các nước này vẫn tụng đọc kinh Pháp Hoa mà không thấy có sự mâu thuẫn. Lý do là kinh Pháp Hoa có nói: "Nếu cần hiện ra thân gì mà cứu độ thì Quan Âm hiện ra thân đó, như thân quốc vương, thân tể tướng, thân nhi đồng, thân phụ nữ...". Cho nên bất cứ ở đâu xuất hiện một con người với lòng từ bi rộng lớn, là ở đó người ta cho là Đức Quan Âm hiện thân. Danh từ Quan Thế Âm (Avalokitesvara) có nghĩa là người lắng nghe tiếng kêu của cuộc đời; lắng nghe để tìm tới mà cứu giúp..." Phật Bà Quan Âm đã được thể hiện trong thi ca Việt Nam : Ca dao Việt Nam có câu: "Cha già là Phật Thích Ca Mẹ già như thể Phật Bà Quan Âm Nhớ ngày xá tội vọng nhân Lên chùa lễ Phật, đền ơn sinh thành" Hình ảnh Phật Bà Quan Âm cũng được tác giả Truyện Phan Trần nhắc đến, qua hình dạng ni cô Diệu Thường-tức Phan Kiều Liên sau khi vào chùa tu - với cái nhìn của Phan Tất Chánh: "Thẩn thơ trước dãy hành lang Vin cành biếc, hái hoa vàng, làm thinh Xa xa phảng phất dạng hình Đức Quan Âm đã giáng sinh bao giờ..." (Truyện Phan Trần, câu 389-392, theo sách VNTVHT của Dương Quảng Hàm, 1968, tr.18) - Trong tác phẩm "Sơ kính tân trang", Phạm Thái (1777-1814) đã hai lần nhắc tới hình ảnh Phật Quan Âm: "Tu hành nhờ Đức Thế Tôn Ắt say sưa đạo lại buồn bồng duyên Lọ là khấn vái tiên thiên Cậy Quan Âm với Mục Liên xót tình..." (SKTTr, câu 1141-1142, sđd, tr 135). - Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) qua tác phẩm Lục Vân Tiên, cũng hai lần giới thiệu Phật Bà Quan Âm: Quan Âm thường đứng thảo ngay Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa Dặn rằng nàng hỡi Nguyệt Nga Tìm nơi nương náo cho qua tháng ngày Đôi ba năm nữa gần đây Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi..." (Truyện Lục Vân Tiên, câu 1523-1528, theo sách NĐC toàn tập, T1, Nhà xb ĐH và THCN, 1980, tr.153). Đó là đoạn nói Kiều Nguyệt Nga, trên đường đi cống Hồ đã nhảy biển trầm mình cho tròn tiết nghĩa với người bạn tình cũ, được sóng thần đẩy vào nơi bãi và được Phật Bà Quan Âm xót thương đem nàng đến nơi chốn cao ráo, sạch sẽ...Sau này khi bỏ trốn khỏi nhà cha con Bùi Kiệm, Nguyệt Nga trong cảnh đêm tối tăm mờ mịt, đã gặp được bà lão cưu mang, thì chính bà lão ấy cũng đã được Phật Quan Âm mách bảo trước: "Người ngay trời Phật cũng vưng Lão bà chống gậy trong rừng bước ra Hỏi rằng nàng phải Nguyệt Nga Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta Khi khuya nằm thấy Phật Bà Người đà mách bảo nên già đến đây..." (Truyện LVT, câu 1651-1656, sđd, tr 159). Nếu ngược về với không khí Thiền học đời Trần (1225 - 1400), sẽ gặp hình ảnh Đức Phật Quan Âm. Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291), trong bài thơ "Lui về (Thối cư), đã viết: "Thẹn bao mình đục sinh thời đục Nhờ chút lòng yên gặp nước yên Đêm mộng Quan Âm vào cỏ nội Sông thu trong vắt dáng sương huyền". (Trúc Thiên dịch, Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, ĐH Vạn Hạnh xb, 1969, tr 167). Vua Trần Nhân Tông, tức Trúc Lâm đệ nhất Tổ (1258-1308), hình ảnh Phật Quan Âm còn có thể tạo nên sức khơi gợi lớn giúp kẻ tu hành đạt đạo. Trong buổi tham vấn Thiền học tại chùa Sùng Nghiêm, một vị Tăng hỏi: "Bậc tu hành lớn còn có thể rơi vào vòng tròn nhân quả nữa chăng?" Điều Ngự đã đáp bằng bốn câu kệ: Miệng tợ huyết hồng phun Phật, Tổ Răng như gươm bén đốn thiền lâm Sáng kia chết xuống A Tỳ ngục Vội niệm Nam mô Quan Thế Âm". (Dẫn theo Nguyễn Lang, VNPGSL, t1, Nhà xb Lá Bối, 1974, tr 321) Chùa Diên Hựu còn gọi là Liên Hoa đài hay Nhất Trụ tự (chùa Một Cột) được xây dựng vào năm 1049 đời vua Lý Thái Tông (1028-1054) với hình ảnh một đóa hoa sen mọc từ dưới nước lên. Cuối thế kỷ XVIII, danh sĩ Trần Bá Lãm đã có bài thơ, không chỉ là ca ngợi cảnh đẹp mà còn ngợi ca tính chất linh ứng của Bồ Tát Quan Thế Âm: "Xóm hoa trong thành, chùa trong xóm Danh là Diên Hựu, Lý triều xây Trong cung hòa hợp mộng hoàn tử Bồ Tát Quan Âm mới linh thay" (Nguyễn Đăng Thục dịch, Phật giáo Việt Nam, Nhà xb Mặt Đất, 1974, tr 79) Tính chất linh ứng của Bồ Tát Quan Thế Âm còn gắn liền với những sinh hoạt bình thường của người dân Việt Nam và cũng được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, nhà thơ của chùa Hương, nhắc đến: "...Mẹ bảo đường còn lâu Cứ vừa đi vừa cầu Quan Thế Âm Bồ Tát Là tha hồ đi mau..." (Bài Chùa Hương, dẫn theo Thi ca VN hiện đại, Khai Trí xb, 1968, tr 238). -Trong văn chương chữ Nôm, hai tác phẩm trường thiên viết về sự hóa thân của Phật Bà Quan Âm được truyền tụng khá sâu rộng trong dân gian Việt Nam là Quan Âm Nam Hải và Quan Âm Thị Kính. * Quan Âm Nam Hải gồm 1426 câu thơ lục bát, giới thiệu về quá trình dốc chí tu Phật của công chúa Diệu Thiện-được gọi là Bà Chúa Ba-con gái út của vua Trang Vương với nơi chốn tu hành và đắc đạo là chùa Hương Tích: "Đức Phật mới chỉ đường tu Rằng có một chùa tại Hương Tích sơn Gần biển Nam Việt thanh nhàn Sang tu chốn ấy sẽ toan viên thành ..." (Dẫn theo Nguyễn Lang, VNPGSL, 72, sđd, tr 102). * Quan Âm Thị Kính gồm 788 câu thơ lục bát, lời thơ chải chuốt, bác học hơn. Tác giả hẳn là một người am hiểu cả Nho, Phật, viết về cuộc đời Thị Kính với đức tính Nhẫn nhục và Từ bi-hiếu sinh, nhờ đấy mà bà đã đắc đạo. Nhà văn Vũ Khắc Khoan đã có những nhận xét rất xác đáng về nội dung tư tưởng của tác phẩm: "Tư tưởng Phật giáo lại càng tỏ rõ khi Thị Kính cam chịu tiếng oan, vì lòng từ bi, vì đức hiếu sinh, hy sinh cuộc sống của mình để nuôi đứa bé sơ sinh của Thị Mầu. Nỗi oan mưu sát chồng đã đưa Thị Kính đến con đường giải thoát, nỗi oan quyến rũ Thị Mầu không làm nản chí trên con đường giải thoát; nhưng chính lòng từ bi, đức hiếu sinh, thực sự lên cõi giải thoát. Trên hành trình vượt sông mê để cập bến giác, tinh thần Phật giáo đã là một ngọn hải đăng soi sáng bước chân Thị Kính. Để Thị Kính trở thành Tiểu Kính Tâm, để tiểu Kinh Tâm trở thành Đức Phật Quan Âm ". (Lời giới thiệu của sách "Vở chèo Quan Âm Thị Kính, Nhà xb Đào Tấn, S, 1966, tr 14). Hình ảnh Quan Âm Thị Kính còn bước sang lãnh vực sân khấu chèo, với nhiều kịch bản chèo được lưu hành khá rộng rãi trong dân gian. Bản in "Vở chèo Quan Âm Thị Kính" do Nhà xb Đào Tấn ấn hành năm 1966 do Vũ Khắc Khoan giới thiệu, là bản in được hình thành do sự góp trí nhớ của nhiều nghệ sĩ ngành chèo và một số bạn hữu vốn hâm mộ bộ môn này. Chèo Quan Âm Thị Kính là một trong số ít vở chèo cổ nổi tiếng . |
|||
26-03-2017, 08:52 PM
(Được chỉnh sửa: 26-03-2017 08:53 PM bởi dieuquang.)
Bài viết: #2
|
|||
|
|||
RE: QUAN THẾ ÂM Bồ Tát qua Thơ ca
BÁT NHÃ CA
Biển tâm bát ngát từng xanh Uyên thâm trí huệ tịnh thanh mật huyền Bè lan chèo trúc qua miền Đưa đường bát nhã con thuyền chân tâm Gối tay mộng giấc trăm năm Tình vương nẻo ý về trong ơ hờ Nửa dường theo với trăng mơ Nửa như chết lặng trên tờ thiên thư Tâm kinh vượt sóng không hư Sóng như chút mộng đã từ xa khơi Ngậm ngùi chi giữa dòng trôi Ngàn năm mặt nước không lời lặng im Chỉ hồng kéo sợi theo kim Đan đi đan lại nhân duyên luân hồi Hoa kinh mối đạo diệu vời Mở ra hiền thánh gót dời nẻo tâm Đại bi Bồ Tát Quán Âm Vượt trên thánh trí tâm đồng hư không Mắt từ tươi sợi nắng hồng Ý từ xanh giọt sương trong lá ngà Sầu ai hìu hắt ngàn hoa Nghe như lệ đọng nhạt nhòa sương phơi Cửa thiền mở cổng mây trôi Rừng thiền tỏa ngát hương trời vô ngôn Hóa thân ảo hiện bãi cồn Trên tờ lá biếc nhập hồn cỏ cây Muời phương nào kể đông tây Hành tung một vết chim bay giữa trời Áo tà dương phất cõi người Lời ru ấm lại vành nôi bao ngày Hồn ai lưu lạc chốn nầy Tiếng than nứt đá động bầy nhạn sa Rồi mai dẫm bước ta bà Ý tình bóng lá dáng hoa mơ màng Trăm năm giấc mộng kê vàng Ngàn thu còn lại một làn sương bay Tâm người như vạt gió lay Thân người hạt nước trên tay ai cầm Giữa lòng đại đạo mênh mông Muôn kinh bổng hiện một dòng mây trôi Mỏng như sợi khói lên trời Lời như tiếng vọng bên đời ban sơ Trang kinh hóa một dòng thơ Vỡ tung mạch lạnh hững hờ chiêm bao Vút cao theo với ngàn sao Nở tươi từng cánh tinh cầu trong đêm Tâm bình đẳng, trí như nhiên Mười phương Phật quốc, một miền cỏ hoa Rồi mai những hạt lệ sa Biến thiên giữa cõi phong ba muôn chiều Tay ngà xương trắng quạnh hiu Giấc ngà tóc rủ buồn thiu cội sầu Sinh từ đâu, tử về đâu Chiếc thân hư ảo một màu khói sương Vấn vương cơn mộng đoạn trường Lòng mê chìm đắm nửa khuôn trăng vàng (1) Trông ra mộ nấm hàng hàng Nến ai thắp giữa đêm tàn mông lung Áo bay trắng cõi vô cùng Trôi trên dâu bể một vùng chiêm bao Cành sương lả nhánh gầy hao Đêm qua còn ngủ vườn đào mái tây Nghiêng triền dốc dựng hoa bay Vàng phai lấm tấm trên dây đoạn trường Ô hay, cơn mộng dị thường Đâu từ muôn kiếp lạc đường chân chim Trăng sao khép, mặt trời chìm Giữa lòng bão nổi, hai miền sầu chia Gọi người cuối bãi sông mê Thả xuôi chiếc lá trôi về bến nao Con chim hót dưới cội đào Con chim nhỏ giọt lệ vào trăng không (2) Hoa còn tươi giải nguyệt phong Hóa thân tan sợi khói vòng ngón tay Ô hay, mộng thực dường nầy Cuốn trôi hoa rụng, lá bay rã rời Ôm trang cổ tích ngậm lời Bốn bề im lặng, ngậm ngùi chi nhau Ơi con nước chảy về đâu Mà lòng suối cũ nhịp cầu nằm trơ Trầm nhật nguyệt, giãi nắng mưa Mặc cho sóng bủa đôi bờ hợp tan Phiến kinh biếc, chuyến đò ngang Chân như thấm giọt lệ vàng trang kinh Mở tung hư ảo ý tình Mở tung huyễn tướng hiện hình chân thân Dòng sầu là một dòng tâm Trôi trên cồn bãi trầm luân giãi dầu Chẳng từ đâu để về đâu Chiếc thân ảo hóa bể dâu bao tuồng Vàng hoa ngọn tóc trổ hường Trên nhành lá thắm cuối đường sông mê Đứng trên đỉnh lộng sương khuya Sáng ra phơi áo bên kia dòng đời Vào ra bao cuộc đổi dời Đến đi như ngọn nước xuôi chân cầu Từ ngàn sau đến ngàn sau Dấu chân đất trổ tươi màu cỏ hoa Điệu trầm lắng tiếng chim ca Tử sinh như nửa cánh sa đầu ghành Hòa chung mạch suối vô thanh Sớm mai lại nở thơm nhành ngọc lan (3) Rồi mai nhụy rữa cánh tàn Hương bay biếc sợi tơ vàng cuối thôn Chân thường hiện giữa vô thường Như lai về sáng giọt sương sa mù Tan trên đỉnh lộng thiên thu Lá hoa khép mở câu ru ạ ời Là không, là có diệu vời Khi tan khi hợp cho đời đó thôi Mai nầy trên đỉnh mây trôi Sắc không hóa một chuỗi cười vô âm Tầng không tay kết kén tằm Đem hoa vàng trải chín tầng quê xưa Áo về bay cõi không mơ Trăng ngà rót giọt qua bờ tóc buông Chân như ướp lá trên nguồn Tan trong vô tướng dứt đường chân chim Rồi mai hoa trổ vườn tiên Rồi mai ảo hiện trăm miền nước xuôi Giả thân, giả tướng giữa trời Giả tâm, giả cảnh ngọt lời nguyên ngôn Theo duyên biến hiện vô cùng Khóc cười tiếng vọng một vùng mơ hoa Tánh không đãnh lễ tướng không Tóc xưa hóa sợi nắng hồng ấm môi Về ngang nương sắn mỉm cười Thương lời lá hát chân đồi vọng vang Chân thân ảnh hiện đạo tràng Dấu chân đồng tử trổ vàng búp hoa (4) Trang nghiêm cõi nước hằng sa Trang kinh đậm dấu mực hoa sáng ngời Lõng buông tay khấu trông vời Ngựa hồng bãi biếc cũng lơi nhịp dồn Về ngang núi ngọc thả buồm Giong qua biển bắc xuôi cồn về nam Thiên đường hóa sợi khói lam Ngàn tiên hóa bướm bay ngang lưng trời Im nghe lá cỏ ngậm ngùi Tiếng con sâu nhỏ hát lời vô ngôn Nghe trong hơi thở hoàng hôn Đâu chừng mạch đất vỡ tung cội mầm Hỏi người là ngã hay nhân Ai về dưới nguyệt dấu chân hạ vàng ?. Mơ tiên xanh lá trên ngàn Tiếng con hạc trắng dưới hàng liễu thưa Suối xưa chảy sợi vàng tơ Qua miền tang hải hiện tờ ngọc kinh Mặt trời về lại lặng thinh Sáng trên tuyệt đỉnh ảo hình ảo thân Mở rương ngọc gấm vàng trâm Dòng hương rơi rớt nửa cung lặng chìm Ô hay, trăng vẫn như nhiên Ngàn thu soi nước hồ in một vầng Ô hay, búp lá sen vàng Chưa dừng hương ngát thiên đàng trời không Trên tầng biếc trổ nụ hồng Chim bay về tổ khói vòng chân mây Ô hay, giọt nước mắt đầy Rơi trong giấc bướm vàng bay qua đồi Giọt sương hiện tướng tuyệt vời Hóa thân suối nước cam lồ trên tay Lá nào chẳng phải nhành tây Cành dương đâu chẳng phải dây mướp vàng Hư không mở cửa đạo tràng Tâm kinh là nước trường giang đượm nhuần Chẳng riêng mà cũng chẳng chung Tay ôm ba cõi vào lòng chân tâm Sợi mây đem kết võng nằm Câu thơ làm chiếc khung tằm kéo chơi Tơ bay phủ núi che đồi Vào trong nhân thế sáng ngời ánh dương Tay hoa búp trổ nụ hường Kết trên tà áo vô thường tặng nhau Rồi mai bể rộng núi cao Rồi mai dưới vũng trên hào cũng kinh Rạng ngời tự thể âm thanh Rỗng rang như cọng sen xanh trong đầm Sợi mây đem kết võng nằm Câu thơ làm chiếc khung tằm kéo chơi Tai nghe tiếng gió ru hời Về trong cây lá thuyết lời kinh hoa Dặm ngàn bãi vắng cồn xa Hóa ra đất thánh trăng ngà ngà lay Phật thân hiện giữa cõi nầy Trang kinh vô tướng tuôn đầy lòng thơ Năm vòng mũ ngọc xa xưa Về bên luống đất nắng mưa giãi dầu Chắp tay biết gởi về đâu Đất nào chẳng hiện hạt châu di đà Hạc xưa ngủ cội hoàng hoa Về chơi ngang núi mặc tà dương bay Như cơn mộng trở giấc mai Biến thân huyễn tướng trên dây đàn buồn Gió mưa cho mấy dập dồn Cuốn theo thác lũ mưa nguồn một thân Thiên quan ướm hỏi xa gần Mà đây bóng ngã con đường quanh co Gió đông dù chẳng đơm hoa Mà mầm lộc biếc đâu xa cội nầy Ô hay, sâu cạn vơi đầy Như dòng ảo hóa đặt bày mà chơi Ngủ quên trên chiếc sao ngời Sớm mai về lại giữa trời thiên thanh Rồi mai thơ hóa thành kinh Rồi mai áo hạc kết hình đài hoa Cỏ nào xanh hội tháng ba Dòng thơ đọng lệ muôn hoa vào đời Nhược Da lụa biếc đem phơi Cỏ hồng sông Hán chìm rơi đất Hồ Cảnh nào khác cảnh trong mơ Người nào rồi cũng đôi bờ hợp tan Đất nào chẳng phải đạo tràng Lời nào chẳng phải lời vàng thuyết kinh Lặng im trên đỉnh âm thanh Vỡ tung tầng biếc hiện hình Phật thân Tâm về an trụ hư không Dòng kinh thấm đất trổ hồng chân thân Dấu xưa mỗi bước mỗi dừng Mưa sa tóc rối mưa lồng trong mơ Hai tay ôm nửa dòng thơ Qua cầu rớt lại bên bờ nước xanh Mai về cởi áo tử sinh Vắt trên ngọn trúc đầu ghành mà chơi Trẻ thơ khúc khích miệng cười Tơ bay trắng sợi mây trời tháng ngâu Hương trầm gởi khói về đâu Quyển kinh làm chiếc thuyền câu qua dòng Chèo trên bể khổ hư không Chèo qua ba cõi tâm đồng vô biên Chèo về tắm suối trăng thiêng Chèo lên đỉnh thượng xuống miền hà hoa Tay ngời biếc nhánh sao sa Đem về nơi cõi ta bà tặng nhau Hóa thành hạt ngọc thuở nào Giấu trong chéo áo chiêm bao những ngày Uyên nguyên tự thuở sơ khai Rừng xanh cây lá phô bày tự nhiên Suối reo câu hát non thiền Trăng treo một chiếc hài tiên trên ngàn (5) Tâm không vỗ cánh niết bàn Trí không về hỏi đạo tràng cũng không Ý từ thấm diệu mênh mông Về trong muôn pháp trổ bông cúc vàng Tánh không chính thực đạo tràng Trổ trên dâu bể hạt vàng như lai Vầng nhật nguyệt, sợi tóc mai Hiện thân vô tướng, dấu hài cũng không Về trên đỉnh biếc non bồng Hóa thân làm cánh nhạn hồng trời tây Rồi mai vẫn bụi cát bay Rồi mai vũ trụ vẫn tày bể dâu Người về lại đỉnh hoa ngâu Long lanh giọt nước mắt màu ánh dương Thương con nước rẽ muôn đường Bao giờ về lại cội nguồn thác xưa Đường mây dặm lục xuân mơ Gió đưa về lại nửa tờ thiên thư Lữa tàn nay tắt âm dư Thuyền lan bóng nguyệt chở chân như về Tay nâng chuỗi ngát bồ đề Nâu vàng gỗ đượm hương quê bàng hoàng Tay nào trên những dây đàn Tay nào mở cửa động vàng bụi bay ‘ Lang thang giữa phố chợ nầy Tìm đâu cho gặp những ngày đã qua Tìm đâu áo nụ tà hoa Mẫu đơn ngàn cánh nở ra tiếng đàn Tỳ bà mười sáu dây vàng Chưa từng nối lại hàng hàng âm giai Tỉnh ra tay lại trắng tay Cười bên dòng thác chia hai nẻo về Bàn tay sấp ngữa tỉnh mê Ôm sao cho trọn lời thề hôm qua Thôi thì trả lá trả hoa Thả dòng thơ nguyện nở ra bồ đề’ Chim từ nhớ cội hoa mơ Bay về qua núi ngủ nhờ trên cây Lòng đà như áng mây bay Chờ nghe ngọn gió heo may xuôi ngàn Ra đồng hát khúc tình tang Mở ra tròn bóng trăng vàng trong tay Thắp hương lạy một lạy nầy Cho xanh biếc núi cho đày mạch sông Cho ngàn nhánh lúa đơm bông Cho cờ lau dựng song song mặt thành Trăng xưa dù vỡ hay lành Khác chi bóng rụng dưới ghành núi lam Bao la trời đất thánh phàm Về chung một bóng trăng ngàn lững lơ Trời êm đất cũng êm mơ Dấu con chim hạc vút tờ hoa tiên Rơi thành sợi khói trầm thiêng Nhập làn sương mỏng đọng trên cánh tình Hiện thân tâm hạnh ngàn xanh Thấm dòng mực tím vòng quanh đóa sầu Đại Bàng vỗ cánh đêm sao Vút bay rớt lại một câu kinh vàng Về qua cõi mộng thênh thang Trên đôi cánh rộng tỏa ngàn đóa sao Ngàn sau núi vẫn một màu Riêng chung đất rộng trời cao mấy tầng Vỡ tung huyễn cảnh huyễn thân Chuỗi cười vọng lại nghe chừng chơi vơi Mũi tên bay vút mặt trời Cắm trên đỉnh lộng rạng ngời thái hư Núi hoa mở hội chân như Hẹn nhau một cuộc hẹn từ tâm không Vườn nhà thu cúc đơm bông Mời nhau ươm sợi cỏ hồng trên sương Trăng ngà rót chén quỳnh tương Hóa ra dòng kệ chân thường bay lên. Phần chú thích : (1) Chử Án trong chú Chuẩn Đề Đại Phật Mẫu, tượng trưng bằng ánh sáng mặt trăng tỏa sáng trên đảnh như vô lượng quang. (2) Mượn ý thơ : ‘ mai anh chết dưới cội đào, khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu’ ( thơ Phạm Thiên Thư, Động Hoa Vàng ). (3) Mượn ý thơ tựa đề ‘ ngọc lan’ của nhà cách mạng Phan Bội Châu : Ngọc lan Tiền thân chướng tự xuất bồng lai Duy hướng bồ đề viện lý tài Tố nhụy quang tranh đông dạ tuyết Kỳ phương phẩm đoạt lãnh đầu mai Hương chân vương giả thiên thùy thưởng Trang tỷ Thường nga nguyệt ám xai Duy Phật tùng lai năng thức Phật Ân cần huệ ngã thử hoa khôi Từ Hoa dịch thoát ý: Tiền thân thiên nữ cõi hoàng hoa Nghiêng cánh tinh anh thuyết Phật Đà Thân trắng trong phơi sương tuyết đọng Tay ngà ngọc trổ nụ tiên sa Đưa hương khuê các dâng người tục Sánh khách trang đài nhạt bóng nga Duyên trời gặp gỡ tâm tâm Phật Hoa của ngàn hoa hẳn nhớ ta. (4) Thiện Tài Đồng Tử trong phẩm Nhập Pháp Giới, kinh Hoa Nghiêm. (5) Chữ Ha trong mẫu tự Ta Bà Ha, chú Chuẩn Đề Đại Phật Mẫu, tượng trưng như vành trăng tròn sáng hiện dưới chân, chỉ cho sự đạt đạo viên tịch. Tác giả: TỪ HOA |
|||
|
Đang xem chủ đề này: 1 Khách